
Bài đọc 1: Cv 14,21b-27
Hai Tông Đồ tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
21b Hồi ấy, sau khi đã loan Tin Mừng cho thành Đéc-bê và nhận khá nhiều người làm môn đệ, ông Phao-lô và ông Ba-na-ba trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a. 22 Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói : “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.” 23 Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.
24 Hai ông đi qua miền Pi-xi-đi-a mà đến miền Pam-phy-li-a, 25 rao giảng lời Chúa tại Péc-ghê, rồi xuống Át-ta-li-a. 26 Từ đó hai ông vượt biển về An-ti-ô-khi-a, là nơi trước đây các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành.
27 Khi tới nơi, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin.
Đ.Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con,
xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
8Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương.9Chúa nhân ái đối với mọi người,
tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.
Đ.Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con,
xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
10Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài,11nói lên rằng : triều đại Ngài vinh hiển,
xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng.
Đ.Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con,
xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
12Để nhân loại được tường những chiến công của Chúa,
và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.13abTriều đại Ngài : thiên niên vĩnh cửu,
vương quyền Ngài vạn đại trường tồn.
Đ.Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con,
xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
Thiên Chúa lau sạch nước mắt họ.
Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.
1 Tôi là Gio-an, tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. 2 Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. 3 Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to : “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. 4 Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết ; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.”
5a Đấng ngự trên ngai phán : “Này đây Ta đổi mới mọi sự.”
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” Ha-lê-lui-a.
Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
31 Khi Giu-đa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giê-su nói : “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. 32 Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
33a “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. 34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 35 Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau.”
(Nguồn: ktcgkpv.org)
—————————-
Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Trong suốt mùa Phục sinh, Phụng vụ cho chúng ta nghe nội dung sách Công vụ Tông đồ, mà thánh Lu-ca là tác giả. Như một phóng sự dài, chủ đề chính của cuốn sách này nói về hoạt động của các tông đồ, đời sống đức tin và sự phát triển của cộng đoàn Giáo hội tiên khởi. Tác giả khẳng định: Đấng Phục sinh luôn hiện diện giữa các tín hữu. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa nhanh chóng lan rộng và số tín hữu ngày càng thêm đông. Các tông đồ hăng say đi khắp mọi nơi để làm chứng về Chúa Giê-su phục sinh. Niềm xác tín nơi các ông mạnh mẽ đến nỗi các ông sẵn sàng chịu đau khổ, thậm chí chấp nhận cái chết, để làm chứng cho lời rao giảng của mình. Những địa danh khác nhau được tác giả sách Công vụ liệt kê (Bài đọc I), cho thấy nỗ lực loan báo Lời Chúa của các tông đồ và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Tuy vậy, dù phát triển nhanh chóng, cộng đoàn tín hữu cũng phải đối diện với những khó khăn từ phía người Do Thái. Họ đã giết Chúa Giê-su, người mà họ lên án là “phản loạn”, và nay họ tiếp tục tẩy chay các tông đồ và vu khống cho các ông mọi điều xấu xa. Hai vị tông đồ là Phao-lô và Bác-na-ba đã khích lệ động viên các cộng sự, củng cố tinh thần của họ, với lời khẳng định: “Chúng ta phải chịu nhiều đau khổ mới được vào Nước Thiên Chúa”.
Cộng đoàn tín hữu của sách Công vụ Tông đồ trải dài trong lịch sử hai ngàn năm và hôm nay lan rộng toàn thế giới. Mỗi Ki-tô hữu chúng ta đều là những người nối tiếp anh chị em tín hữu tiên khởi, tiếp tục sống đức tin và loan báo Lời Chúa, với niềm xác tín Chúa Phục sinh đang hiện diện, với tác động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã nối kết mọi nền văn hóa và mọi ngôn ngữ chủng tộc, đồng thời vẫn tôn trọng và lưu giữ những khác biệt. Giáo hội của Chúa Giê-su mang tính duy nhất trong những dị biệt, làm nên một Giáo hội phong phú đa dạng và cùng tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chung của gia đình nhân loại, lấy đức yêu thương làm luật căn bản.
Các Ki-tô hữu tin vào sự hiện diện của Chúa Giê-su, và cùng nhau làm nên những cộng đoàn yêu thương. Từ thời ban đầu, Đạo Ki-tô được gọi với cái tên rất dễ mến là “Đạo yêu thương”. Lời mời gọi yêu thương của Chúa Giê-su chính là nền tảng cho các cộng đoàn Ki-tô hữu, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hồi tưởng giờ phút linh thiêng sau bữa tiệc ly. Chúa Giê-su đã truyền lại một di chúc quan trọng. Người gọi đó là “giới răn mới”. Yêu thương là điều kiện cốt yếu để trở nên môn đệ của Chúa Giê-su, đồng thời cũng là dấu chỉ để mọi người nhận ra Chúa Giê-su đang hiện diện nơi các tín hữu, cá nhân cũng như cộng đoàn.
Yêu thương là cốt lõi của Ki-tô giáo. Đó cũng là lời mời gọi thường xuyên được nhắc lại trong giáo huấn của Giáo hội. Tuy vậy, lời mời gọi này có nguy cơ trở thành một công thức lỗi thời và nhàm chán đối với một số tín hữu. Đây đó vẫn tồn tại những Ki-tô hữu chỉ mang danh nghĩa mà thiếu chiều sâu. Vì vậy đức tin không thực sự thấm nhập vào cuộc đời, để tác động và chi phối hành vi, lời nói và cử chỉ của các tín hữu. Vẫn còn đó những cộng đoàn chỉ sống đức tin một cách hình thức mà thiếu lòng đạo đức nội tâm. Một đức tin hời hợt, khi đối diện với thử thách hoặc tranh chấp quyền lợi, sẽ dễ bị nhường chỗ cho xung đột, chia rẽ và bất hòa.
Nếu Bài đọc I trích sách Công vụ Tông đồ, nhắc cho chúng ta về quá khứ, là thời sơ khởi của Giáo hội, thì Bài Tin Mừng lại là giáo huấn dành cho hiện tại, và Bài đọc II lại hướng chúng ta về tương lai. Thánh Gio-an đã được chiêm ngắm khung cảnh huy hoàng của Thiên Đàng, đó là Trời mới Đất mới. Nơi đó sẽ không còn nước mắt và tang tóc, nhưng tràn ngập niềm vui. Nơi đây, điều mà hai tông đồ Phao-lô và Bác-na-ba khích lệ các cộng sự: “Chúng ta phải chịu nhiều đau khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” đã trở thành hiện thực. Khung cảnh Trời mới Đất mới là nguồn động viên chúng ta trong hành trình đức tin. Đó cũng là câu trả lời cho những vấn nạn về tương lai và hậu vận của con người. Đối với những ai tin cậy yêu mến Chúa, Ngài sẽ dành cho họ vinh quang vĩnh cửu. Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta ngay ngày hôm nay và trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, hãy cùng cộng tác với Người để đổi mới bộ mặt thế giới, làm cho tình yêu thương lan tỏa nơi mọi nẻo đường trần thế, và như vậy, Nước Thiên Chúa đang ngự đến giữa chúng ta.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
(Nguồn: tonggiaophanhanoi.org)
—————————
Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh
LUẬT YÊU THƯƠNG
Một điều gây ngạc nhiên trong phụng vụ Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh, đó là Đức Giêsu người Nadarét, Đấng sáng lập Kitô giáo, một nhân vật lẫy lừng quyền năng trong lời nói và hành động, Người đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều nuôi đám đông dân chúng trong sa mạc, chữa lành các bệnh nhân, mở mắt cho người mù, cứu sống người bị kết án tử hình, làm phép lạ cho Ladarô sống lại, đi ra khỏi nấm mồ và biết bao nhiêu việc làm kỳ vĩ khác nữa…
Thế mà Con Người nầy khi từ giả cõi trần, từ biệt các môn đệ của mình đã không để lại một tác phẩm văn chương hay văn tự bút tích nào ngay cả một quyển sách giáo lý hay một quy tắc luật lệ cũng không, cũng không trối lại một gia tài sản nghiệp nào cả. Nếu có ! Đó chỉ là một lệnh truyền, một khẩu lệnh: “Thầy ban cho anh em một Điều Răn Mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Bài Tin Mừng Ga 13, 34). ‘Gia tài của mẹ’ chỉ vỏn vẹn có bấy nhiêu ! Một chữ Yêu là định nghĩa bản tính của Thiên Chúa (Deus est Amor) và sống tình yêu là làm trọn vẹn mọi lề luật.
Từ lệnh truyền đó mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi nền văn hoá, kể cả các tôn giáo, đều rập khuôn theo giáo huấn của Đức Giêsu đó là yêu thương. Nhân loại ngày nay đang chạy theo Văn Minh Tình Thương, nghĩa văn minh của sự sống. Tuy nhiên phải yêu thương “như” Thầy đã yêu thương. Yêu thương như là điểm tựa căn bản, có sức thu hút và là then chốt của mọi văn minh nhân loại. Bản chất Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu làm phát sinh sự sống, văn minh tình thương luôn bênh vực sự sống. Đâu có tình yêu thương ở đó có Đức Chúa Trời, mà đâu có Đức Chúa Trời nơi đó có sự sống.
Yêu thương làm nên bản sắc đậm đà hoàn vũ của Kitô giáo, nó gói trọn nền thần học luân lý Kitô giáo. Thật ra tình yêu tha nhân đã được nói đến thời Cựu Ước trong sách Lê-vi một cách khá thi vị về sự quan tâm đến người nghèo đi mót lúa hay hái mót nho, hoặc cách đối xử tinh tế với người điếc và người mù (x. Lv 19, 1-18). Đức Giêsu đến hoàn tất lề luật tình yêu, đặt tình yêu Thiên Chúa ngang hàng với tình yêu tha nhân.
Tuy nhiên điều mới lạ ở đây được Đức Giêsu nhấn mạnh đó là Yêu “như” Thầy, đó là điều quan trọng, vì tình yêu phát xuất do nhiều động lực khác nhau, có khi tình yêu do động lực cảm tính, do ích kỷ hay vụ lợi. Yêu “như” Đức Giêsu Kitô là phục vụ hạnh phúc con người, tình yêu nầy không phải chỉ kéo dài một thời điểm nào đó, nhưng suốt cả cuộc đời. Đức Giêsu hoàn toàn trung thành với thánh ý của Chúa Cha và yêu thương nhân loại đến bất chấp mọi trở ngại, dù bị từ chối hay bị ruồng bỏ, bị vu vạ cáo gian, bất chấp mọi hoàn cảnh, bị bách hại hay phản bội, cả đến cái chết. Người đã đi hết con đường tình yêu. Tình yêu của Đức Giêsu không biết đến biên giới, có thể hiểu về địa lý, màu da chủng tộc hay ngôn ngữ, và cũng hiểu về khó khăn tinh thần và vật chất, kể cả cái chết, như là sự thách đố cuối cùng.
Không phải vô tình khi thánh Gioan lặp đi lặp lại giới răn tình yêu trong bối cảnh cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Khi Giuđa, người môn đệ phản bội bán đứng Thầy rời khỏi phòng Tiệc ly ngay sau khi nhận miếng bánh Thầy Giêsu trao ban, chẳng lẽ Người không biết tình yêu của mình sẽ đi tới đâu, sẽ kết thúc ra sao. Người đã mường tượng thấy cuộc khổ nạn mình sẽ kinh qua. Người sẽ chết vì Yêu. Yêu cho đến cùng, dù Người ngao ngán khi thấy giờ tử nạn đến gần. Giờ Người chịu chết, cũng chính là “Giờ Con Người được tôn vinh”. Yêu cho đến cùng một kẻ phản trắc, thật khó biết chừng nào, môn đệ Giuđa đã lạm dụng tình yêu vô vị lợi và vô điều kiện của Thầy chí thánh. Đó là gương mẫu yêu “như” Thầy đã yêu.
Cũng chính thánh Gioan trong sách Khải Huyền đã nói đến “trời mới đất mới, trời cũ đất của đã qua đi” như là hoa trái của vinh quang Phục Sinh. Tình yêu tha thứ đã đổi mới mọi sự : “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (x. Bài đọc 2. Kh 21, 1-5a). Cũng vì Tình yêu của Chúa Phục Sinh mà Tông đồ Phaolô và Banaba đã rong ruổi trong các xứ dân ngoại ở Tiểu Á để rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, và thiết lập các giáo hội địa phương. Hai vị đã kể lại những “việc Thiên Chúa đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin”, tức là những cộng đoàn mới được thành lập (Bài đọc 1. Cv 14, 27). Các ngài lại ra đi trồng Giáo hội nơi các miền xa lạ.
Các ngài cũng nhận thấy công việc bao la vượt quá sức mình, nên sau khi ăn chay và cầu nguyện, các ngài lo lắng chỉ định hàng kỳ mục, phó thác giáo hội địa phương cho Chúa, để họ trở nên dấu chỉ của Giáo Hội duy nhất và hoàn vũ của Chúa Kitô, qua việc thực hành dấu chỉ Tình Yêu duy nhất và hoàn vũ như lòng Chúa mong muốn. “Cứ dấu nầy người ta sẽ nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là chúng con yêu thương nhau”.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, tin vào Chúa sống lại thì dễ hơn là thi hành lệnh truyền ‘Yêu thương như Thầy đã yêu’. Con đã cố gắng nhiều trong giới răn nầy nhưng xét thấy mình còn rất xa điều Chúa đòi hỏi. Xin hãy giúp con cố gắng thực hành tình yêu nầy. Amen. Allêlluia.
(Lm Luy Nguyễn Quang Vinh, Giáo xứ Đức An, Pleiku)
___________________________________
Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên

ĐIỀU RĂN MỚI
Suy niệm
Đoạn Tin Mừng này được trích từ diễn từ ly biệt của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly. Vừa sau khi Giuđa rời phòng tiệc để thực hiện việc phản bội, Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến – giờ tôn vinh Thiên Chúa qua thập giá. Trong giây phút đầy xúc động, Người để lại cho các môn đệ một “điều răn mới”: Yêu thương nhau như chính Người đã yêu.
Yêu thương nhau trở thành điều răn mới, vì không còn yêu theo kiểu cũ là yêu như chính mình, hoặc yêu như chúng ta muốn yêu; mà là yêu như Chúa muốn chúng ta yêu, là yêu như Ngài đã yêu thương chúng ta. Trước khi công bố điều răn mới này, Ðức Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, trong đó có cả Giuđa, dù lúc đó Ngài biết ông sẽ manh tâm phản bội. Ngài còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa, như cơ hội cuối cùng để mong ông nhận ra mình đang lầm đường lạc lối. Nhưng rồi cũng vô ích, ông vẫn lầm lì ra đi thực hiện mưu đồ của mình. Đúng là “ma đưa lối quỷ đưa đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”.
Trước thái độ cố chấp của Giuđa, Chúa Giêsu biết rõ số phận đang chờ mình, và Ngài sẵn sàng hiến thân để yêu thương cho đến cùng. Yêu như Chúa yêu là như vậy: một tình yêu khiêm hạ, cúi mình để phục vụ; một tình yêu tha thứ trước sự vong ân bội nghĩa; một tình yêu cao cả là hy sinh chính mình. Tôn giáo nào cũng đặt nặng tình yêu thương đồng loại, nhưng điều thật mới mẻ nơi Kitô giáo là yêu thương“như Thầy đã yêu thương”. Tình thương này đã trở nên mẫu mực cho mọi tình yêu của con người. Chưa từng có vị Thầy nào trên thế giới đã dám sống và công bố như thế. Hơn nữa, tình yêu ấy còn là chính sức mạnh linh thiêng của Thiên Chúa đem lại ơn cứu độ cho con người.
Lời trăn trối về giới răn mới của Chúa Giêsu vẫn làm chúng ta trăn trở và nhức nhối. Tuy có nhiều gương sống sáng ngời của nhiều vị thánh đã thực hiện Lời Chúa hôm nay, nhưng nhìn lại bản thân, đời sống cộng đoàn cũng như lịch sử Giáo Hội, ta thấy không thiếu những phân rẽ, bất hòa, kỳ thị, chống chọi, kình địch và triệt hạ lẫn nhau. Điều này đã làm cho thiên hạ chê cười, và gây ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống đức tin, khiến nhiều tín hữu rời bỏ Giáo hội để tìm đến những giáo phái hay đạo giáo khác. Thật mỉa mai cho chúng ta, những người tự hào về tôn giáo của mình là đạo rất chính rất thật, nhưng đời sống lại không như vậy, khiến cho nhiều người phải thất vọng.
Mahatma Ghandhi được coi như bậc đại thánh của dân tộc Ấn cũng đã có lần bị kỳ thị và khinh khi, đến nỗi ông không được vào nhà thờ dự lễ. Ông là người rất yêu mến Thánh Kinh và đã tìm ra nơi Kitô Giáo một sách lược hữu hiệu cho đường lối chính trị của mình. Quả thật, dễ dàng yêu mến đạo, nhưng khó lòng yêu người có đạo. Đường lối yêu thương của Phúc Âm thì tuyệt vời, nhưng chưa đi vào đời mà mới chỉ là một mớ giáo thuyết, tuy rất đồ sộ và hệ thống, xem ra không có tôn giáo nào bằng. Nhưng tất cả chỉ bằng không nếu điều răn mới của Đức Giêsu vẫn còn để nguyên trong các sách Tin Mừng, mà chưa được khai sáng trong đời Kitô hữu để có thể khai phóng cho đời sống con người.
Tôn giáo nào cũng có những dấu hiệu riêng để người khác biết mình là tín hữu. Những dấu hiệu nơi người Kitô hữu thì chúng ta thường cho là đeo thánh giá, làm dấu thánh giá, đi nhà thờ, kinh nguyện sớm tối,… Nhưng đối với Ðức Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của người môn đệ là tình yêu thương mà họ dành cho nhau, qua sự cảm thông, tha thứ, tôn trọng, hy sinh, phục vụ, chia sẻ,… Có yêu thương người đồng đạo thì ta mới có thể yêu thương người khác đạo, cũng là những người con cái Thiên Chúa mà Ngài muốn cứu chuộc. Chúng ta trách những con người hôm nay sao quá vô cảm, nhưng xem ra chúng ta cũng vẫn vô tâm.
Có điều là muốn yêu thương thì phải chấp nhận đau thương. Đây là điều đòi phải có một trái tim phi thường. Nhìn lên thập giá Chúa ta hiểu điều đó. Đó mới là tình yêu có sức thánh hóa và biến đổi đời sống ta. Chỉ có tình yêu đó mới giúp ta hoàn thiện, trở nên chính mình, làm nên cuộc đời mình theo ý định của Thiên Chúa, đem lại cho ta niềm an vui và hạnh phúc cho nhau. Hãy để cho Lời Chúa một lần nữa lọt vào tâm khảm chúng ta, để những con người được Chúa chọn gọi vì yêu thương biết sống tình thương yêu như Chúa, một tình yêu thương vượt qua mọi ranh giới, để làm chứng rằng: Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang sống trong tôi, và tôi đang sống trong Ngài, để sự hiện diện của tôi ngày càng phản ảnh sâu xa sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời này.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Con được dạy yêu người như chính mình,
nhưng chính mình lại yếu đuối mỏng giòn,
cuộc sống với bao nhiêu là sai sót,
nhân cách con cũng dễ bị sói mòn.
Hôm nay Chúa dạy con điều răn mới,
yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương,
một tình yêu nhân hậu và khiêm nhường,
như Chúa đã rửa chân cho môn đệ.
Dù biết họ sẽ lỗi ước quên thề,
và hơn nữa còn manh tâm phản bội,
nhưng Chúa vẫn đón nhận không từ chối,
và sẵn sàng chọn đường lối hiến thân.
Yêu như Chúa thật ra chẳng dễ dàng,
vì không phải tình yêu trong chốc lát,
mà tình yêu dám vượt những trái ngang,
cả đau thương và chua xót bẽ bàng.
Yêu như Chúa không tìm kiếm an toàn,
mà trong tâm thế sẵn sàng hiến mạng,
bởi khi yêu là bắt đầu cuộc tử nạn,
qua đau khổ mới đạt tới vinh quang,
chứ không dễ dàng như kiểu của thế gian.
Để sống giới răn mới yêu như Chúa
xin ban cho con một quả tim mới,
để từ nay con thực sự đổi đời,
không còn sống theo đường xưa lối cũ,
mà nên người Ki-tô hữu đẹp ngời. Amen
Lm. Thái Nguyên
______________________________
Suy niệm 4: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ
“Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13:34).
Quý ông bà và anh chị em thân mến,
Di sản và cũng là di chúc Thầy Giê-su để lại cho môn đệ của Ngài là Tình Yêu. Tình yêu ấy cao trọng đến nỗi người ta đặt thành “giới luật”. Luật này được đặt ra vì con người, tức là nếu thực thi luật yêu thương, con người sẽ tìm được hạnh phúc, bình an và tự do đích thực cho cuộc sống nơi dương thế.
Tình yêu của Thầy Giê-su như thế nào? Đó là một tình yêu đến cùng, tình yêu dám hiến mạng sống mình cho người khác, không cần biết họ là ai và sống ra sao. Thầy Giê-su biết học trò Giu-đa Ít-ca-ri-ốt sẽ phản bội, nhưng Thầy không chạy chốn, không lên án, ngược lại Thầy cảnh báo cho Giu-đa biết sự tình để không bị sa ngã. Trên thập giá, Thầy Giêsu cũng tha thứ cho những kẻ giết hại Ngài, đúng như những gì Ngài đã dạy cho môn đệ: Hãy tha thứ và cầu nguyện cho những kẻ xúc phạm anh em! Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì anh em nào có công chi!
Có một người cha đã góa vợ từ khi đứa con gái thứ ba mới lọt lòng mẹ. Ông ở vậy, chịu cảnh “gà trống nuôi con” để dưỡng dục con cái khôn lớn, ăn học thành tài. Ba cô con gái tên là Yến, Êm và Uyên. Người cha quyết sống và làm việc sao cho những cái tên ông đặt cho ba cô con gái có ý nghĩa và thiết thực nhất. Trước khi lìa đời, ông gọi các con lại và nói rằng “Cha chỉ có một di sản để lại cho các con, đó là ba chữ cái của tên các con ghép lại: YÊU. Cha đã sống tình yêu ấy dành cho các con. Cha từ bỏ tuổi xuân, không ăn chơi phung phí, chân chính lao động mưu sinh để nuôi các con thành tài. Giờ đây, các con hãy tiếp tục sử dụng di sản cha để lại và sống với nhau bằng tình yêu chân thành. Thiếu tình yêu, các con sẽ thiếu tất cả. Có tình yêu, các con sẽ có tất cả.”
Quý vị thân mến, quý vị có nhận thấy di sản Chúa Giê-su để lại thật có ý nghĩa cho đời sống chứng tá của quý vị không? Quý vị có để lại di sản gì cho đời không? Làm thế nào để không lãng phí di sản Chúa để lại?
Chúc quý vị cầu nguyện sốt sắng!
![]()


