Chúa Nhật 2 Phục Sinh, Năm C (CN 27.04.2025) – Đừng Cứng Lòng Nữa (Ga 20,19-31)

Bài đọc 1: Cv 5,12-16

Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa ; cả đàn ông đàn bà rất đông.

Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.

12 Hồi ấy, nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ.

Mọi tín hữu đều đồng tâm nhất trí, thường hội họp tại hành lang Sa-lô-môn. 13 Không một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. 14 Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa : cả đàn ông đàn bà rất đông.

15 Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phê-rô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. 16 Nhiều người từ các thành chung quanh Giê-ru-sa-lem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.

Đáp ca: Tv 117,2-4.22-24.25-27a (Đ. c.1) 

Đ.Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

2Ít-ra-en hãy nói lên rằng :
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.3Nhà A-ha-ron hãy nói lên rằng :
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.4Ai kính sợ Chúa hãy nói lên rằng :
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Đ.Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

22Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
lại trở nên đá tảng góc tường.23Đó chính là công trình của Chúa,
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.24Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.

Đ.Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

25Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ,
lạy Chúa, xin thương giúp thành công.26Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành
cho người tiến vào đây nhân danh Chúa.
Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em.27aĐức Chúa là Thượng Đế, Người giãi sáng trên ta.

Đ.Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Bài đọc 2: Kh 1,9-11a.12-13.17-19

Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.

Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.

9 Tôi là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giê-su. Lúc ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giê-su. 10 Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn 11a nói rằng : “Điều ngươi thấy, hãy ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh.” 12 Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. 13 Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng.

17 Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói : “Đừng sợ ! Ta là Đầu và là Cuối. 18 Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời ; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ. 19 Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này.”

Tung hô Tin Mừng: x. Ga 20,29

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Này anh Tô-ma, vì đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.” Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng: Ga 20,19-31

Tám ngày sau, Đức Giê-su đến.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

19 Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”

24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông : “Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp : “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” 26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em.” 27 Rồi Người bảo ông Tô-ma : “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” 28 Ông Tô-ma thưa Người : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” 29 Đức Giê-su bảo : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !”

30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.

(Nguồn: ktcgkpv.org)

—————————-

Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Cả ba năm A,B,C của Chúa nhật thứ hai Phục sinh đều có chung một bài Phúc âm. Đó là trình thuật của tác giả Gio-an về việc Chúa Giê-su phục sinh hiện đến với các tông đồ, lần thứ nhất không có Tô-ma, và lần thứ hai, có Tô-ma ở đó (x. Ga 20,19-31). Biến cố thập giá đã gây cho ông Tô-ma một cú sốc quá lớn. Trước đó, khi Chúa Giê-su quyết định đến Bê-ta-ni-a để làm cho ông La-gia-rô đã chết được sống lại, bất chấp những nguy hiểm đe dọa, ông Tô-ma đã khẳng khái nói với các tông đồ khác rằng: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16). Điều này chứng tỏ ông là một người bạo dạn cương quyết trong việc theo Thầy mình.

Trước biến cố thập giá, Tô-ma là người đã mất niềm tin. Khi gặp Đấng Phục sinh bằng xương bằng thịt, ông tìm lại được niềm tin đã mất. Trước cuộc thương khó của Thầy mình, Tô-ma cũng như các tông đồ khác đã cùng ăn uống với Người, nhưng bây giờ để tin, ông cần bằng chứng. Cũng như biết bao người khác của mọi thời đại, Tô-ma cần có chứng cớ xác thực, làm nền tảng cho niềm tin của mình. Ông đã thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Điều kiện của Tô-ma đưa ra cũng hợp lý. Bởi lẽ để gửi gắm niềm tin nơi một người nào đó, người ta cần có chứng cớ cụ thể. Ba động từ được ông dùng trong câu trích dẫn trên là thấy, xỏ ngón tay, đặt bàn tay. Ông muốn khẳng định: để tin thì phải mắt thấy tai nghe và thân xác phải chạm tới. Tuy vậy, tám ngày sau đó, khi Chúa Giê-su phục sinh hiện ra và chấp nhận những điều kiện của Tô-ma, thì ông lại “đứng hình” khiếp vía. Ông không còn dám xỏ ngón tay và đặt bàn tay vào các vết thương của Người nữa. Cuộc gặp gỡ Chúa Giê-su Phục sinh bằng xương bằng thịt đã làm cho Tô-ma hoàn toàn bị thuyết phục. Điều đặc biệt ở đây là Tô-ma tuyên xưng đức tin bằng một công thức chưa hề có trước đó trong Tin Mừng thánh Gio-an: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Qua lời tuyên xưng này, ông Tô-ma đã diễn tả định nghĩa tín lý cốt lõi sau này của Ki-tô giáo. Đối với Tô-ma và các tông đồ, từ nay Đức Giê-su không còn phải là Chúa, mà là Thiên Chúa, tức là Đấng quyền năng đã tỏ mình ra trong lịch sử của dân tộc Ít-ra-en. Quyền năng ấy thể hiện ở việc cửa nhà đóng kín mà Người vẫn vào được. Cũng vậy, dù các ông nhìn thấy Chúa bằng con mắt thể lý, nhưng vẫn chưa nhận ra Người vì chưa được Người soi sáng. Đấng Phục sinh không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Người là Thiên Chúa thật. Niềm tin đã mất không chỉ được thấy lại, mà còn hoàn hảo và trọn vẹn sâu sắc hơn nhiều.

“Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Đây không phải chỉ là lời dành cho Tô-ma, mà còn là thông điệp cho mọi thế hệ. Cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi lúc đó đâu có nhìn thấy Đức Giê-su bằng xương bằng thịt, vậy mà số tín hữu càng ngày càng đông. Niềm xác tín vào sự hiện diện của Đấng Phục sinh đã giúp ông Phê-rô có thể chữa bệnh, thậm chí cái bóng của ông phủ lên bệnh nhân, cũng làm cho họ được chữa lành khỏi những bệnh hiểm nghèo. Cũng chính từ niềm tin Chúa Giê-su là Thiên Chúa mà các Ki-tô hữu hội họp tại hành lang Sa-lô-môn, tức là một phần của Đền thờ Giê-ru-sa-lem, là nơi thờ phượng Thiên Chúa của người Do Thái để ôn lại giáo huấn của Người. Từ nay, Thiên Chúa của các Tổ phục cũng là Thiên Chúa của các Ki-tô hữu (Bài đọc II).

Hai mươi thế kỷ sau sự kiện Phục sinh, hôm nay Giáo Hội vẫn tiếp tục rao giảng Đấng Phục sinh và khẳng định: Người đang hiện diện giữa chúng ta! Chúa Ki-tô đang sống! Các tín hữu hôm nay và chúng ta đang được Đấng Phục sinh chúc phúc, vì chúng ta là những người “tuy không nhìn thấy mà vẫn vững niềm tin”.

Trong Bài đọc II, tông đồ Gio-an chia sẻ với chúng ta hạnh phúc thiên đàng, là tương lai và lý tưởng của Ki-tô hữu. Đó là hình ảnh Con Người trong vinh quang thiên quốc. Phúc cho những ai vững niềm xác tín vào sự hiện diện của Đấng Hằng Sống, người đã chiến thắng tử thần và âm phủ. Người đang được tôn vinh nơi thiên quốc và đồng thời cũng đang hiện diện giữa chúng ta.

Hôm nay cũng là Chúa nhật của lòng Chúa Thương Xót, do sáng kiến của Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô từ năm 2000. Mục đích của ngày này giúp chúng ta cảm nhận lòng thương xót của Chúa Cha thể hiện qua cuộc đời Chúa Giê-su mà đỉnh cao là biến cố thập giá, từ đó chúng ta sẽ thực thi lòng thương xót đối với tha nhân. Nếu Chúa Giê-su chúc phúc cho những người tin vào Chúa, thì Người cũng chúc phúc cho những ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa, Đấng Tối cao (x.Mt 5,7). Thế giới hôm nay rất cần đến lòng thương xót, không chỉ là từ nhu cầu vật chất, mà còn thiếu tình thương, tình liên đới cảm thông và giúp nhau hướng về sự thiện. Mỗi chúng ta cũng cần đến lòng thương xót của Chúa, như lá chắn che chở chúng ta giữa những xô đẩy của dòng đời. Lạy Chúa Giê-su, con tín thác vào Chúa!

+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

—————————

Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh

THÁNH THẦN VÀ ƠN BÌNH AN

 

Vào buổi chiều của ngày thứ Nhất trong tuần, ngày Chúa Sống Lại:  Nhóm tông đồ sợ hãi, thu mình vào trong phòng tiệc ly và khoá trái cửa lại, họ chỉ lo lắng cho mình được thoát chết, và bổng chốc Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra đứng giữa họ, mang lại cho họ sự bình an.  Ơn Bình An là quà tặng đầu tiên của Đấng Phục Sinh, khai mào thời đại mới, thế giới mới.  Đức Giêsu hiện đến phá vỡ bế tắc cho các tông đồ, Người hóa giải sự căng thẳng và giải thoát các vị khỏi ưu phiền lo lắng.  Đấng phục sinh đến lấp đầy niềm hy vọng sống còn rất mong manh nơi các môn đệ.  Thật vậy Đức Chúa Chúa Phục sinh lấp đầy hố sâu ước vọng nơi con người, ước vọng trường sinh.

Thánh Gioan tổng kết các sự kiện hôm đó: Chúa Phục sinh bất thần đến, ban bình an, ban Thánh thần, ban ơn tha tội và sai các tông đồ ra đi.  “Chúa Giêsu đến đứng giữa các ông và nói: ‘Bình an cho anh em’ … Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.  Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.  Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha’” (Bài Tin Mừng. Ga 20, 19b-23).  Qua trích đoạn Tin Mừng nầy cô đọng lại nơi đây ba khía cạnh của mầu nhiệm sống lại: Chúa phục sinh, Chúa lên trời và Chúa Thánh thần hiện xuống.

Và dường như Đức Giêsu cấp tốc thông ban cho các tông đồ và thế gian tất cả hồng ân phục sinh ngay khi Người gặp lại các môn đệ.  Người không giữ gì lại cho riêng mình, Người vội vàng ban Thánh Thần khi xuất hiện cho nhóm mười một: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.  Như buổi ban đầu sáng tạo, Người làm cử chỉ tạo dựng mới trên các tông đồ.

Người thổi hơi và ban sự sống mới, sự sống của chính Đấng phục sinh, đó chính là chiến thắng trên sự dữ và thần chết.  Thuật trình làm nhớ đến trang đầu của cuộc sáng tạo, khi vũ trụ còn uông mang chưa nên hình dạng, Thần khí Chúa ban lượn trên uông mang, khởi từ đó Thiên Chúa bắt đầu công cuộc sáng tạo vũ trụ và vạn vật trên trời dướt biển, sinh vật trên mặt đất, và muông thú trên rừng.

Chúa Thánh Thần chính là nguồn mạch chữa trị tâm hồn, mang ơn cứu độ đến cho hết mọi người, là nguồn suối bình an cho thế giới.  Sự tạo dựng mới nầy được tiếp tục thực hiện qua tay các Tông đồ: “Hồi ấy nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông đồ … Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông lẫn đàn bà rất đông … Người ta còn khiêng  cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố, đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó …  Tất cả đều được chữa lành” (Bài đọc 1. Cv 5, 12-16).  Như mạch suối hằng sống phát sinh từ Chúa Kitô phục sinh, chảy tràn sang các tông đồ làm Giáo hội lan tràn đến muôn dân.

Đức Giêsu cũng không quên chứng minh về căn cước của bản thân mình, khi trình cho các tông đồ thấy các vết thương, các dấu đinh, tất cả nói lên chiến tích của cuộc giao tranh giữa sự sống và sự chết vừa xảy ra.  Các vết tích nơi thân xác Đức Giêsu là những chứng cứ của việc trao ban sự sống, Người đã chết cho người mình yêu, là bằng chứng lòng trung thành của Người thực thi ý muốn của  Thiên Chúa “xin đừng theo ý Con một vâng theo ý Cha”.  Đó là dấu chỉ của tình yêu vô điều kiện và không biên giới.

Vinh quang ngày Chúa nhật phục sinh và khổ nạn ngày thứ Sáu Thánh không phải là hai sự kiện đặt song hành bên nhau nhưng là hai mặt không tách rời của mầu nhiệm Vượt Qua, cả hai việc nầy có khả năng chinh phục kẻ cứng lòng tin như Tôma. Một khi đã liên kết ý nghĩa của hai sự kiện lại với nhau, ông Tôma nhận ra Đức Giêsu bị đánh bầm dập ngày thứ Sáu Thánh chính là Chúa Kitô phục sinh của ngày sống lại, ông đã sụp lạy và tuyên xưng: “Lạy chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.

Ý nghĩa câu tuyên xưng : “Lạy chúa của con”: tức lạy ông chủ của con (dominus meus).  “Lạy Thiên Chúa của con” tức lạy Đức Chúa Trời của con (Deus meus).
Nghĩa là từ lâu Tôma gọi Đức Giêsu là ông chủ  (Dominus), nhưng nay ông chủ đó lại là Thiên Chúa (Deus).  Lời tuyên xưng của Tôma: Lạy ông chủ của tôi xưa kia, nay là Thiên Chúa của tôi.  Ông tuyên tín Đức Giêsu lịch sử và Đức Giêsu Kitô phục sinh là một đấng duy nhất, tức là ông xác tín Đức Giêsu đã chết nay sống lại thật rồi.  Trong tiếng Việt khi nói đến chúa Trịnh, chúa Nguyễn, thì không ai coi các vị đó là thần thánh gì cả, mà coi họ chỉ là lãnh chúa một vùng miền nào đó.

Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, việc Chúa sống lại không làm cho con chạy thoát cảnh đời đang sống, nhưng dạy con đường vào vinh quang phải ngang qua cửa hẹp như Chúa đã đi. Lạy Chúa con tin, xin Chúa hãy thêm đức tin cho con. Amen.  Allêluia.

(Lm. Luy Nguyễn Quang Vinh, Gx Đức An, Pleiku)

___________________________________

Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên

LÒNG THƯƠNG XÓT

Suy niệm

Đức Giêsu Phục Sinh bất ngờ xuất hiện giữa các tông đồ. Ngài trao ban bình an và cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Chúa vẫn mang dấu tích của cuộc khổ nạn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Thầy, và hơn nữa còn được Thầy ủy thác sứ mạng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.

Chỉ có một người không vui là ông Tôma, vì ông vắng mặt khi Chúa hiện ra. Có vẻ giữa ông và nhóm anh em có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn. Ông không tin vào ai khác, chỉ tin vào giác quan của mình, ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em. Xem ra con người Tôma có cái gì bất ổn, bất thường, lập dị, xa cách với đời sống cộng đoàn, nên ông đã không chứng kiến được việc Chúa phục sinh.

Trước sự thách thức và cố chấp của ông, tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hạ mình để hiện ra một lần nữa với nhóm Mười hai, có cả Tôma, Ngài  nói với ông: “Đặt ngón tay vào đây…”. Tôma kinh hoàng thưa với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Ông thấy nên ông tin, điều ấy không lạ gì, nhưng“Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Việc minh chứng Chúa phục sinh không phải là vinh quang chói lọi làm choáng ngợp thiên hạ mà là chính những dấu đinh.

Chúa đã minh chứng như thế cho sự phục sinh của Ngài, thì chúng ta cũng vậy, không có dấu chứng nào hơn là những vết thương của những thập giá hằng ngày, để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa trong đời mình. Cũng vậy, từ hai ngàn năm nay, thánh giá Chúa mới thực sự là biểu hiện vinh quang, chứ không phải là những gì hoành tráng cao sang bên ngoài. Đó mới là biểu hiện và dấu chỉ cao độ nhất của lòng thương xót Chúa, để cứu chữa nhân loại trước bao nhiêu đau thương khốn khổ.

Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy Chúa, đã sờ chạm vào Chúa. Tất cả các tông đồ đều đã hy sinh mạng sống mình để làm chứng là Đức Kitô đã sống lại, Ngài là Đấng cứu độ duy nhất cho loài người… Tiếp nối các tông đồ đã có hàng triệu người nhận ra được sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, đã dâng hiến đời mình vì niềm tin ấy, trong số đó có hằng ngàn cha ông chúng ta đã hiên ngang đổ máu mình để lưu truyền đức tin lại cho con cháu hôm nay, cụ thể là 118 thánh tử đạo Việt Nam.

Quanh chúng ta cũng vẫn có nhiều anh chị em đạo đức, đầy lòng tin mến. Họ đã được ơn “thấy và chạm đến” Chúa một cách nào đó, nên họ rất chuyên chăm trong đời sống cầu nguyện, sốt sắng trong thánh lễ, và tích cực làm việc tông đồ. “Thấy và chạm” đến Chúa nghĩa là “cảm nghiệm” hay “cảm nhận” về sự hiện diện của Chúa khi nghe Lời Chúa, khi Rước Mình Chúa, khi phục vụ anh chị em, khi thăm viếng và cứu giúp những người bệnh tật, nghèo hèn, khốn khó…

Để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cũng không cần phải nổi bật cái gì hết, mà chỉ cần nổi bật lòng thương xót của Chúa. Thương xót nói theo thánh Phaolô là: đón nhận tất cả, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Tuy nhiên, thương xót không có nghĩa là làm ngơ trước tội lỗi và sai lạc của người khác, cũng không phải là dung túng hay nhượng bộ cho những xấu xa vẫn xảy ra trong đời ta. Thương xót là muốn cho nhau một cuộc sống tốt hơn, là tìm cách dẫn đưa anh em về đường ngay nẻo chính. Muốn vậy, nhiều khi chính mình phải hy sinh và chấp nhận thương đau.

Cũng như xưa, con người ngày nay làm sao có thể tin Chúa được, nếu họ không thấy chứng tích của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, hay của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu nơi Giáo hội, nơi từng người Kitô hữu, cách riêng là nơi các bạn trẻ. Người ta có thể đặt vấn đề với chúng ta rằng: Đạo của bạn là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chứng tích tình yêu của bạn! Mahatma Gandhi đã từng tuyên bố với người công giáo như thế.

Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra rằng mình được diễm phúc trở nên Kitô hữu là nhờ lòng thương xót của Chúa, để suốt đời ta biết sống lòng thương xót đối với mọi người, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn, là đối tượng ưu tiên của lòng Chúa xót thương. Quả thật “Phúc thay ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Chúa xót thương”. Đó mới là hạnh phúc đích thực của chúng ta hôm nay và mãi mãi.  

Cầu nguyện

Lạy Cha!
Thương xót chính là hành động của Cha,
là tiêu chuẩn để nhận ra ai con cái,
là sống với tất cả lòng nhân ái,
nhưng bao hàm công bằng và sự thật.

Thương xót không dung túng điều xấu xa,
nhưng đòi con phải kiên nhẫn vượt qua,
để đón nhận những hồng ân cao cả,
xứng đáng với những gì con người “là”.

Thương xót là hành động cao quí nhất,
là phẩm chất sâu nhất của con người,
là hành vi thờ phượng cao hơn cả,
vì điều Chúa muốn không phải là lễ vật,
mà trước tiên là sống với lòng nhân,
để trở nên ánh sáng giữa cuộc trần..

Đức Giê-su đã trở nên người thế,
để thể hiện lòng thương xót của Cha,
trên thập giá Ngài cũng đã thứ tha,
trước lòng dạ bạc ác của con người,
ngay cả ông Tô-ma cứng lòng tin,
Ngài cũng đã hạ mình cho xem thấy.

Xin cho con được đầy lòng thương xót,
dù nhiều khi rất đắng đót trong đời,
nhưng nhờ vậy phát sinh con người mới,
để tình Chúa sáng tỏa khắp muôn nơi,
là niềm vui ơn cứu độ cho đời. Amen.

Lm. Thái Nguyên (Gp Cần Thơ)

______________________________

Suy niệm 4: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ

“Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20:29).

Quý ông bà và anh chị em thân mến,

Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nêu bật nhu cầu được kinh nghiệm Chúa một cách thiết thân của các môn đệ, đặc biệt ở nơi con người thánh Tô-ma Tông đồ. Và khi đã có được kinh nghiệm ấy, thánh Tô-ma đã có một lời tuyên xưng đức tin có lẽ là đẹp nhất trong toàn bộ sách Tin Mừng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! ” (Ga 20:28)

Sau khi kinh nghiệm trực tiếp Chúa Phục Sinh, thánh Tô-ma không còn nghi ngờ gì nữa. Những gì ngài biết về Thầy Giê-su nay đã vượt lên trên sự nhận biết tầm thường mà thay vào đó là một sự nhận biết siêu việt, một sự nhận biết với một chiều sâu thiêng liêng nội tâm xác tín và với con tim chân thành. Tông đồ Tô-ma không còn gọi Thầy Giê-su là “thầy” nữa, nhưng ngài xưng tụng Người là Chúa và là Thiên Chúa. Tương tự như sự nhận biết Thầy Giê-su của Tông đồ Gioan: “Chúa đó!” (Ga 21:7)

Quả thực, trong bối cảnh sống của các Tông đồ thời đó, các ngài khát khao được diện kiến Chúa Giê-su Phục Sinh cách trực tiếp, được nghe-nhìn-nếm-ngửi-chạm tới Chúa Phục Sinh (như hình ảnh của thánh Tô-ma trong đoạn Lời Chúa hôm nay). Nhờ đó, các ngài xác tín và làm chứng mạnh mẽ rằng “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2:11).

Ngày nay, chúng ta cũng có thể đạt được kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Phục Sinh cách trực tiếp qua việc cầu nguyện với một đức tin do Chúa ban tặng. Đức Ki-tô của đức tin mà chúng ta kinh nghiệm qua đời sống cầu nguyện và phục vụ anh chị em nghèo khổ, bất hạnh… là Đức Giê-su mà các môn đệ của Người khi xưa đã từng gặp gỡ và chung sống.

Quý ông bà và anh chị em thân mến,

Quý vị có kinh nghiệm này chưa? Quý vị có bao giờ gặp thấy Chúa trong cầu nguyện và qua việc phục vụ anh chị em đồng loại không?

Để có thể kinh nghiệm trực tiếp Đức Ki-tô, tôi thiết nghĩ, không có cách nào khác hơn là chúng ta nên chìm lắng trong cầu nguyện và ra sức phục vụ anh chị em nghèo khổ và bất hạnh đang sống chung quanh mình. Chúng ta kinh nghiệm về Chúa Kitô hay chúng ta có kinh nghiệm của Chúa Kitô vẫn chưa đủ. Nghĩa là chúng ta còn cần phải sống kinh nghiệm ấy cách sống động trong đời sống hằng ngày. Để sống kinh nghiệm này chúng ta cần kinh nghiệm được lòng thương xót Chúa chạm vào tâm hồn mình.

Thật vậy, sở dĩ thánh Tôma và các thánh có thể tuyên xưng mạnh mẽ “Đức Giêsu Kitô là Chúa” là vì các ngài được lòng thương xót Chúa chạm vào tâm hồn các ngài. Chúng ta hãy chiêm ngắm chân dung thánh Tôma trong đoạn Tin Mừng hôm nay thì sẽ nghiệm thấy rõ ràng hơn, thuyết phục hơn. Thánh Tôma bị cho là cứng lòng tin. Có lẽ không phải thế! Ngài chưa tin Chúa Phục Sinh có lẽ bởi vì niềm tin vào sự phục sinh của vị Thầy đáng kính của ngài vượt khả năng của ngài, khả năng hạn hẹp của con người, khả năng của đức tin. Và đức tin của ngài chỉ có thể đủ mạnh mẽ, đủ trưởng thành khi ngài kinh nghiệm trực tiếp Chúa Phục Sinh, khi ngài được lòng Chúa thương xót chạm vào tâm hồn ngài mà thôi. Quả thế, Chúa hiểu thấu tâm tư và niềm tin của thánh Tôma, nên Người đã thực hiện điều người học trò khát khao trong sâu thẳm cõi lòng. Khi đạt được kinh nghiệm này, thánh Tôma trở thành người chứng vĩnh cửu cho niềm tin vào vị Thầy mà ngài đã từng chia cơm sẻ bánh, mà ngài đã kinh nghiệm cách sống động.

Bên cạnh hình ảnh Tông đồ Tôma, thánh Phêrô cũng là nhân chứng sống động về lòng thương xót của Chúa. Trong nhóm Mười Hai, có lẽ thánh Phêrô là người “mặc cảm” nhất bởi ngài đã chối Thầy Giêsu trong khi được đặt làm thủ lãnh. Tuy nhiên, sau khi kinh nghiệm Chúa đã phục sinh con người ngài, cảm nhận Chúa thương xót ngài (Ga 21:15-19) và được ơn Thánh Thần đổ tràn hồn xác, thánh Phêrô đã làm chứng hùng hồn về Đấng Phục Sinh (x. Cv 3-5), thậm chí đã trở nên như một Đức Kitô khác (alter Christus) – rao giảng mạnh mẽ và làm các phép lạ, và đã dùng cả tính mạng để làm chứng cho niềm tin vào Chúa Phục Sinh.

Có lẽ chúng ta cũng thế! Chúng ta sẽ sống đức tin và san sẻ lòng thương xót Chúa cho người khác bằng cả tính mạng của mình khi chúng ta kinh nghiệm Chúa chạm vào tâm hồn chúng ta bằng lòng thương xót vô biên và dịu dàng của Người.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau trước Bàn Thờ Chúa để xin Người giúp chúng ta có thêm niềm tin, nghị lực và lòng hăng say tìm kiếm Chúa trong cầu nguyện và các công việc phục vụ của chúng ta trong Hội Thánh của Người, quý vị nhé!

Chúc quý vị cầu nguyện sốt sắng!

Lm Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ, Gp Kon Tum

WGPKT(26/04/2025) KONTUM