Chúa Nhật Lễ Lá – Năm C (CN.10.04.2022)

KIỆU LÁ

BÀI PHÚC ÂM NĂM C: Lc 19, 28-40

“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi rằng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”.

Đó là lời Chúa.

——————–

THÁNH LỄ

BÀI ĐỌC I: Is 50, 4-7

“Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.

(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

Đó là lời Chúa.

BÀI ĐỌC II: Pl 2, 6-11

“Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Đó là lời Chúa.

 

BÀI THƯƠNG KHÓ: Lc 22, 14 – 23, 56 (bài dài)

“Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.

Đến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: “Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa”. C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: “Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!” C. Đoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Đành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!” C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: “Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn (trong) các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu hạ. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!C. Rồi Chúa nói: “Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin”. C. Ông thưa Người: S. “Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết”. C. Nhưng Người đáp: “Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã ba lần chối rằng không biết Thầy”. C. Và Người bảo các ông: “Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?” C. Các ông thưa: S. “Không thiếu gì cả”. C. Vậy Người nói: “Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: ‘Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác’. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất”. C. Các ông thưa Người: S. “Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây”. C. Và Người bảo: “Đủ rồi”.

Đoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Đến nơi, Người bảo các ông: “Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”. C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha”. C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: “Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ”. C. Người còn đang nói, thì này đây (xuất hiện) một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: “Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?” C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: S. “Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?” C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: “Thôi, đủ rồi”. C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm”. C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa.

Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: S. “Cả ông này cũng theo hắn”. C. Nhưng ông chối và nói: S. “Này chị, tôi đâu quen biết người ấy”. C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: S. “Chính ông cũng là người trong bọn đó”. C. Nhưng Phêrô đáp: S. “Này anh, đâu có phải tôi”. C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: S. “Đúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa”. C. Phêrô đáp: S. “Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?” C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.

Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: S. “Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó”. C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: S. “Nếu ông là Đấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay”. C. Người trả lời: “Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”. C. Mọi người đều hỏi lại: S. “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?” C. Người đáp: “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa”. C. Bấy giờ họ nói: S. “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói”. C. Đoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô.

Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: S. “Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua”. C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: S. “Ta không thấy người này có tội gì”. C. Nhưng họ cố nài rằng: S. “Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây”. C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.

Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: S. “Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi”. C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: S. “Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi”. C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: S. “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!” C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: S. “Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi”. C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.

Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Đám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: “Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: “Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con”. Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: “Hãy đổ xuống đè chúng tôi”, và nói với các gò nổng rằng: “Hãy che lấp chúng tôi đi”. Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?” C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: S. “Nó đã cứu được kẻ khác, thì hãy tự cứu mình đi nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”. C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: S. “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”. C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “Người này là vua dân Do-thái”. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: S. “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. C. Đối lại, tên kia mắng nó rằng: S. “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?” C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: S. “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. C. Chúa Giêsu đáp: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.

Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”. C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: S. “Ông này quả thật là người công chính”. C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.

Đứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Đoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đá đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.

Đó là lời Chúa.

—————–

Suy Niệm 1:                             Linh mục Phêrô Nguyễn Vân Đông

KHI VUI THÌ VỖ TAY VÀO,
ĐẾN KHI HOẠN NẠN THÌ NÀO THẤY AI !!!

 
Bài Thương Khó : Lc 22,14-23,56

1. Chính Chúa Giêsu “ra tay” tổ chức công việc này.

“ Khi ấy, Đức Giêsu dẫn đầu các môn đệ, tiến lên Giêrusalem. Khi đến gần làng Bét-pha-ghê và làng Bê-ta-ni-a, bên triền núi gọi là núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo : Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó đi. Nếu có ai hỏi: “ Tại sao các anh cởi lừa người ta ra, thì cứ nói: Chúa có việc cần dùng . . . (Lc 19, 28-31).

Và đúng y chang như vậy ! Hai vị môn đệ được sai đi hôm ấy chắc phải sửng sốt lắm thay. Ta phải nói như thánh Phaolo : “Tôi biết tôi tin vào ai “. (2Tm 1,12)

2. “Vạn tuế Con Vua David, Đấng nhân danh Chúa mà đến” !

Con Thiên Chúa được dân chúng đón rước trọng thị mà chỉ ngồi trên lưng một con lừa ! Rất ư là bình dị, cũng ví như bây giờ vua vào thăm làng mà đi xe đạp. “ Các ông dắt lừa về cho Đức Giêsu, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa, và giúp Người cỡi lên.”(một cử chỉ vừa yêu mến vừa kính trọng!) (Lc 19,35)

Và cuộc rước trọng thể bắt đầu. “Người đi tới đâu, dân chúng cũng cởi áo choàng trải xuống mặt đường. . . Tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!” (Lc 19,37-38)

Hãy tưởng tượng dân thành Giêrusalem hôm đó vui mừng xiết bao. Cuộc rước kết thúc chỗ nào thì không thấy nói. Nhưng cũng có mấy “ngài” Pharisieu phá đám : Ông rầy mấy ông môn đệ đi chứ ! Ồn ào quá lẽ ! Chúa Giêsu bảo với mấy ổng: “ Tôi bảo các ông : Họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên !” (Lc 19,40)

3. Chúa Giêsu đã chết rất đau đớn, rất nhục nhã, rất cô đơn.

* Chúa Giêsu chết rất đau đớn : Bị đói , bị khát, bị đánh đòn tàn bạo bởi những tên lính khỏe mạnh và độc ác. Thân xác Người không nơi nào lành, đầy dẫy những dấu lằn của roi vọt. Thân xác nào mà không biết đau ? Khi vác cây thập ác vì đuối sức ngã xuống đất, lại bị đòn vọt tiếp. Khi bị treo trên thập ác, quá khát nước lại xin uống, quân ác lại cho giấm chua ! Chịu không nổi, trong ba người, Chúa Giêsu là chết trước tiên !

* Chúa Giêsu chết rất nhục nhã : Chết trần truồng ! Bị đánh giá là thua Baraba tên trộm cướp giết người khét tiếng. Hằng năm quan Philato tha cho một tù nhân vào dịp lễ Vượt Qua theo ý dân chúng xin. Philato hỏi: Một là Giêsu hai là Baraba, các người muốn ta tha ai ? Họ hét to : Tha Baraba và đóng đinh Giêsu ! Chúa Giêsu từng làm bao nhiêu phép lạ để cứu người, rồi hôm nay lại chết chung với nhưng tên tội phạm cướp của giết người bị kết án tử hình thập ác . Nhục quá đi chứ !

* Chúa Giêsu chết rất cô đơn : “ Lạy Cha, sao cha đành bỏ con ? “. Chúa Giêsu mang cả tội lỗi loài người trên cây thập ác. Những người thân thiết giờ phút này đâu còn mấy người ? Bao nhiêu người được Chúa Giêsu chữa lành bây giờ ở đâu ? Cô đơn tinh thần; cô đơn tình người.

4. Một chút “ấm lòng”

* Nơi người thân : Đức Maria Mẹ Người không rời con một bước. Gioan cũng thế. Maria Madalena cũng thế.

* Nơi người lạ : Bà Veronica lau mặt Chúa. Bà này rất can đảm. Chúa Giêsu biết ơn bà bèn in gương mặt mình trên khăn bà ấy ! (Chặng đàng thứ sáu).

* Nơi người tội lỗi : Chỉ có người “trộm lành” là khẳng khái lên tiếng bênh vực Chúa : Ngài đâu có tội gì ? Chúng ta mới đáng tội chết chứ ? Rồi anh khiêm nhượng xin Chúa “nhớ” đến anh. Chúa nói với anh : Ngay hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta.

Lạy Chúa, xin cho con bước đi với Ngài,

Xin cho con cùng vác với Ngài,

Thập giá trên đường đời con đi. . .

AMEN

————–

Suy Niệm 2:                             Linh mục Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Lc 19, 28-40)

          “Hoan hô Con Vua Đavit!
Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”

   1/ Để củng cố Đức Tin cho các môn đệ để họ sẵn sàng đón nhận và chia sẻ cuộc khổ nạn của Chúa, càng về cuối đời, Đức Giêsu càng dùng nhiều cách để mặc khải Ngài là Thiên Chúa quyền năng:

– Hiển Dung trên núi Tabor trước ít lâu, các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan còn nghe Chúa đàm đạo với Môsê và Êlia về cuộc Khổ Nạn tại Giêrusalem…

– Đứng với các môn đệ mà Chúa đã thấy mẹ con con lừa cột ở đâu… và chủ nhân sẽ hỏi gì… và phải trả lời thế nào…

– Chúa Cỡi lừa là để ứng nghiệm lời tiên tri Dacaria: Vua ngươi đến với ngươi hiền lành, cỡi trên lưng lừa…” (Dcr 9, 9).

– Dân hô vang: “Hoan hô Con Vua Đavit…” Tước hiệu này là của Đấng Messia theo các tiên tri.

   2/ Dù đã Mặc khải Thiên Tính Chúa như vậy, khi đối diện với cuộc thương khó, các tông đồ dường như mất hết niềm tin, các ông bỏ Thầy, chạy tứ tán để thoát thân… có ông còn chối bỏ vì sợ liên lụy khi được hỏi…

   3/ Các tông đồ chỉ phục hồi niền tin sau khi Chúa Sống Lại và nhất là khi Thánh Thần ngự đến…

 ***********

Lạy Chúa! Chúng con yếu đuối lắm, chúng con sợ đau khổ lắm. Xin thêm đức tin và sức mạnh cho chúng con để chúng con trung thành giữ đạo Chúa giữa “thế hệ gian tà và ác độc” này. 

——————

Suy Niệm 3:                              Linh mục Tađêô Võ Xuân Sơn

TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

     Hôm nay, toàn thể Hội Thánh cử hành biến cố Chúa Giêsu vào thành thánh Giêrusalem, đồng thời Hội Thánh khởi đầu Tuần Thánh, là thời gian Hội Thánh sống tâm tình của Chúa Giêsu bước vào cuộc thương khó của Ngài. Như vậy, trong cử hành hôm nay, Hội Thánh muốn mỗi chúng ta trả lời câu hỏi: tại sao nơi mỗi chúng ta có sự thay lòng đổi dạ đối với Chúa nhanh như vậy? Tại sao hôm nay đông đảo con người giơ tay tung hô Chúa là Đấng Cứu Độ rồi chỉ trong một tuần lễ thôi, đám đông đó lại giơ tay hét lớn: “Đóng đinh nó vào thập giá”? Có lẽ không có gì gây bất ngờ cho bằng lòng người và cũng không có gì thay đổi nhanh chóng cho bằng lòng người!

    Điều bất ngờ là không phải ai khác, không phải chỉ những người chưa biết Chúa hay đang thù ghét Chúa, mà chính Kitô hữu chúng ta thay đổi lòng dạ với Chúa đến mức không ngờ. Chúa Giêsu hôm nay đang bị xã hội hôm qua và hôm nay loại ra khỏi, ai gây nên? Chẳng lẽ chỉ những người Rôma và Do-Thái hay những người vô thần? Không có một kitô hữu nào, một gia đình nào, một nhóm người nào gây nên sao? Giáo lý của Chúa bị người nghe chống đối, ai gây nên? Chẳng lẽ chỉ những người ghét Chúa và ghét đạo thánh của Chúa? Không có môt Kitô hữu nào, một gia đình nào, một nhóm người nào chống đối giáo lý của Chúa sao? Trong những ngày này, một số giám mục trên thế giới đã không phải lo âu và lên tiếng cảnh báo rằng ngay cả trong Giáo Hội đang có khuynh hướng tự ý sửa đổi giáo lý của Chúa đó sao? Hội Thánh là thân mình của Chúa hôm nay không được tung hô đã đành, lại còn bị những trận đòn tơi tả của các phương tiện truyền thông, của những thủ đoạn trục lợi bất chấp sự thật, có khác gì những trận đòn Chúa chịu xưa đâu. Trong hoàn cảnh này, các môn đệ của Chúa đi đâu cả? Đang nhập vào đám đông để trá hình: Vừa hoan hô Chúa, vừa lên án Chúa? Hay đang tìm một nơi nào đó ngủ nghỉ, trốn tránh để mặc Chúa một mình? Chúng ta đang là ai trong đám đông hôm nay?

     Chúng ta là những người đang vẫy lá hoan hô Chúa ư? Đó không phải là chọn lựa tốt, vì sau khi tiếng tung hô không còn, chúng ta có thể hét lớn: đóng đinh nó vào thập giá, máu nó sẽ đổ lên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi. Chúng ta là một trong các môn đệ trong những ngày này ư? Đó cũng không phải là chọn lựa đúng, vì sau đó các tông đồ kẻ bán Chúa, kẻ thì chối Chúa, kẻ bỏ Chúa mà đi và có những kẻ ơ hờ nằm ngủ, mặc dù nhiều lần được Chúa kêu gọi “Các con ngủ sao? Hãy dậy và cầu nguyện” tham dự vào cuộc khổ nạn của Ngài. Vậy, tôi là ai trong biến cố tuần thánh này? Xin mượn hình ảnh của Đức Hồng Y Etchegarey để chọn đó là được nên như con lừa cho Chúa cỡi lên. Đám đông hai bên đường tung hô, con lừa không tự mãn, vì biết danh dự đó dành cho Đấng Mêsia; đám đông lên án Chúa, con lừa cũng không chán nản, ngừng nghỉ, nhưng cứ âm thầm mang Chúa trên lưng, bước lên con đường đầy sỏi đá dù làm cho chân đau nhức mà vẫn không kêu than: “ Đời tôi tiến bước như một con lừa.”

     Xin cho sự lựu chọn và tâm tình này giúp chúng ta đồng cảm với những đau khổ của Chúa và vui lòng đi theo Chúa suốt chặng đường đời.

—————–

Suy Niệm 4:                             Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An

 

Bức Tranh “Ba Thập Giá”

 

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “ba thập giá”. Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật lung linh trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét…giữa nét đau khổ của hai tử tội, hận thù của đám đông là dung mạo Đấng Chịu Đóng Đinh hiền hòa chan chứa tình thương.

Tuần Thánh bắt đầu từ Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Khổ nạn, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó. Việc cử hành hôm nay với hai nhịp tương phản, mang hai sắc thái nghịch nhau : người Do thái tung hô Chúa Cứu Thế, ngập tràn tiếng reo vui, sau đó họ đòi lên án tử hình Người và cuộc thương khó đầy máu nước mắt.

Ôi nhân tình thế thái, sao mau đổi trắng thay đen!

Màu đen sự dữ, màu trắng tinh khôi bàng bạc trong bức tranh “ba thập giá” và cuộc thương khó.

1. Sắc đen sự dữ

Chìa khóa để đọc tất cả những sự vô lý, bất công, phi đạo đức trong vụ bắt và xét xử Chúa Giêsu là: quyền lực của tối tăm. Bốn sách Tin Mừng đều kể rằng Chúa Giêsu bị bắt ban đêm. Matthêu, Maccô và Gioan kể một đám người mang gươm giáo gậy gộc do các thượng tế, kỳ mục, Pharisêu sai đến. Thánh Luca lại nói có cả các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục ở trong bọn người mang gươm giáo gậy gộc. Trong đêm tối, đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì giới lãnh đạo cao nhất của dân Do thái đã hội họp tại nhà thủ lãnh của họ, sai thuộc hạ đi bắt Chúa Giêsu theo sự hướng dẫn của Giuđa, người môn đệ phản Thầy. Họ ngồi chờ để kết án ngay trong đêm.Phiên họp ban đêm này do chính Caipha, chủ tịch Thuợng Hội Đồng chủ sự. Thánh Matthêu kể: “Các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình” (Mt 26,59). Họ dùng chứng gian vu khống và xuyên tạc chụp mũ để kết án tử hình Đức Giêsu (Mt 26,60-61; Mc 14,59).

Trong bộ phim 12 giờ cuối cùng của Chúa Giêsu, nhà đạo diễn đã hoạ lại hình ảnh của đêm tối vườn Cây Dầu. Đó là đêm tối của đức tin và cũng là đêm tối của lòng người.

Bộ phim bắt đầu với cảnh Chúa Giêsu đưa các môn đệ lên núi cầu nguyện vào một đêm đen như bao đêm khác.Thế nhưng, đêm nay khác hẳn mọi đêm. Bóng tối của sự dữ phủ kín, bóng đêm của quyền lực Satan bao trùm. Đêm nay, bóng tối của sự dữ hoành hành. Đêm nay, quyền lực của Satan như muốn thống lãnh thế gian. Con người đã toa rập với Satan để giết hại Con Thiên Chúa. Đêm tối vườn Cây Dầu chỉ còn lại một mình Chúa cô đơn.

Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các Thượng tế và nhóm Pharisiêu; họ mang theo đèn đuốc khí giới…” (Ga 18,3). Người ta phải sử dụng đèn, đuốc…chứng tỏ họ đang ở trong bóng tối. Họ sử dụng khí giới tức là tựa vào sức mạnh và quyền lực thế gian. Với những từ ngữ này, Thánh Gioan giới thiệu họ như là biểu tượng của sức mạnh thế gian và quyền lực bóng tối. Giữa bóng đêm của vườn Cây Dầu thấp thoáng những khuôn mặt hung tợn với gươm giáo gậy gộc, xâu xé tấm thân đơn độc của Chúa Giêsu. Bóng tối như tiếp tay cho những hành động lén lút, bắt giữ bất minh. Màn đêm đó cũng che kín lý trí của những người tham dự phiên tòa bóng tối. Tất cả mọi chứng cứ kết án đều nằm trong vòng tròn gian dối. Mọi sự vật lúc này như nhuốm một màu đen đồng lõa cho sự dữ. Màu đen của những tâm hồn đen tối che lấp luôn cả màu đen của bóng đêm âm u. Đây là đêm của hận thù. Đây là giờ của bóng tối. Đây là thời điểm của xấu xa ngự trị. Không ai còn có thể nhận ra được ánh sáng chân lý trong màu đen của ác tâm.

Và trong các giờ kế tiếp, bóng tối càng bao trùm. Chúa Giêsu càng lẻ loi cô độc hơn.

Kể từ khi Giuđa bước ra khỏi phòng Tiệc Ly thì trời tối đen. Giuđa lẩn vào bóng đêm với đôi tay đen đúa nhận lấy những đồng bạc là giá máu của Thầy mình. Thánh Gioan trình bày, Giuđa rõ ràng thực hiện công việc này dưới tác động của Satan. Khi Giuđa rời phòng Tiệc Ly, “lúc đó, trời đã tối” (Ga 13,30). Trời tối bên ngoài chưa quan trọng. Ở đây, trời tối trong tâm hồn Giuđa. Đối với Gioan, Giuđa trong hành động nộp Chúa Giêsu đã thật sự là hiện thân của quyền lực bóng tối, đối lại với Chúa Giêsu là ánh sáng tinh tuyền.

Giuđa khoác lên trái tim màu đen của tội lỗi qua nụ hôn phản bội.Từ đó, bóng tối của sự dữ đã bao trùm lên Thượng Hội Đồng từ Thượng tế Caipha đến các Luật sĩ và Kỳ mục. Bóng tối như đồng lõa và biện minh cho mọi âm mưu thâm độc của những người đại diện cho lề luật.

Những mảng đen được tô đậm lên trên bức tranh Tình Yêu Giêsu, không phải bằng những nét vẽ dịu dàng, những nét chấm phá đặc sắc nhưng là những vết màu ngoằn nghèo, vô lối. Tình Yêu Giêsu lúc này đang bị tàn phá theo từng vết đen xấu xa của đám đông. Bóng tối đã làm tất cả mờ ảo trong điên cuồng. Mọi âm mưu đã được trù tính cẩn mật. Mọi lý lẽ độc dữ đã được hoạch định. Mọi hành vi được thực hiện ngay trong bóng tối của thần chết. Cứ thế, từng mảng đen tội lỗi như được dịp trút hẳn xuống Đức Giêsu, như muốn nhuộm đen toàn bộ cuộc đời và tình yêu của Ngài bằng mọi cách và mọi phương tiện. Ngài bị cho là đồ mê ăn uống, là phường tội lỗi. Ngài bị liệt vào hàng trộm cướp, hàng nô lệ cùng đinh. Ngài bị xem là phường gian dối, tiên tri giả. Ngài bị kết án là quân nói lộng ngôn, phạm thượng. Ngài bị xử tử vì bị gán cho việc kích động phản loạn. Đám đông dân chúng, từ những tên đầy tớ mạt hạng đến những bậc vị vọng, từ những người quen biết đến cả khách thập phương không từ chối điều gì để bôi đen con người Đức Giêsu. Ngài đã bị nhúng xuống bùn nhơ của sự khinh miệt, phỉ báng. Ngài đã bị đày đọa tận cùng của kiếp làm người.(x. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin, trang 252-253).Tình Yêu Giêsu đã bị tội lỗi nhân loại nhuộm đen màu tăm tối. Cuộc đời Chúa Giêsu đã bị dã tâm con người hủy hoại trong bóng đêm của sự bêu riếu, sỉ nhục và cái chết trần trụi thương đau. Nào ai có thể tin vào con người tàn tạ như thế! Còn ai có thể trông cậy vào con người yếu đuối bất lực này!!!

2. Sắc trắng thanh khiết

Tưởng chừng như bức tranh cuộc đời của Đức Giêsu chỉ là một vệt đen khiếp đảm với những ẩn tình vô lối mà nhân loại áp đặt lên chân dung Ngài. Nhưng thật nhẹ nhàng và linh động, Tình Yêu Giêsu như ngọn bút tài hoa đã gợi mở những nét vẽ thật diễm tuyệt. Tình Yêu sáng lên một màu trắng tinh khôi và mênh mang huyền ảo của trái tim thanh khiết trao ban đến tận cùng.

Tình Yêu ấy không mang một chút bợn nhơ của hận thù chia cắt nhưng lóng lánh sắc màu hồng tươi của Tình Yêu phục hồi và giải thoát. Tình Yêu ấy chấp nhận tất, dâng hiến tất cả để xóa đi mặc cảm tội lỗi của con người, cho con người cái nhìn mới của Thần Khí, cái nhìn của Thiên Chúa trong một tổng thể toàn vẹn và đưa con người đến với Tình Yêu sung mãn tuyệt hảo của Thiên Chúa. (x. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin, trang 254-255).

Màu đen sắc tối của con người đã được Tình Yêu Giêsu làm cho trắng tinh và trả lại sự trong sáng trong Sự Thật. Ngài đã đáp trả lại tất cả mọi bất công và hận thù bằng lòng bao dung tha thứ. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Đức Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Đức Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng.

3. Trắng đen trong lòng người.

Tiến bước theo Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người, thấy sự tráo trở thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen của nhân tình thế thái, chúng ta thấy bàng bạc một màu đen của những ý đồ xấu xa, những manh tâm gian ác và những hành vi tội lỗi thấp hèn và thấy sáng lên tình yêu thanh khiết của Đấng Cứu Độ.

Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những sắc tối của lòng người. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người công chính, lương thiện lại là nạn nhân của bất công, gian dối và tham lam. Biết bao người đã để cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nổi sẵn sàng chà đạp và lường gạt nhau. Biết bao người vì lòng tham, vì tính ghen tương đố kỵ,vì thói tự mãn kiêu căng vẫn đang tìm cách làm khổ nhau và làm hại đời nhau. Bao lâu lòng người còn chất chưa những ý đồ bất chính, những thủ đoạn lừa lọc, những ích kỷ nhỏ nhen, bấy lâu vẫn còn đó những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ và bị loại trừ.

Con người thời nay vẫn nhân danh hạnh phúc của riêng mình để kết án tử cho người khác, nhất là các thai nhi vô tội. Họ giết người vô tội không cần bản án, không cần thẩm phán hay quan toà. Tử tội thai nhi đã bị giết, chỉ vì một bà mẹ không muốn sinh con. Cả xã hội từ ông bà, cha mẹ, họ hàng và các người hành nghề lương y đã sẵn sàng giết chết sự sống của một sinh linh không có khả năng tự vệ. Biết bao cha mẹ đã viện ra nhiều lý do để loại trừ những đứa con của mình cách dửng dưng vô cảm.

Điều ác và sự thiện cũng chỉ là sự khác biệt của hành động rút gươm “hãy xỏ gươm vào bao, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52). Khi tất cả mọi lưỡi gươm được cất vào vỏ, sự thiện và thiên đàng đang ở giữa lòng thế giới. Khi thanh gươm được rút khỏi bao, nhân loại đang đắm chìm trong hỏa ngục của chính mình. Con người luôn muốn hành xử tất cả theo lối quyền uy và bạo lực của bóng tối. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dùng một phương cách kỳ lạ để cho con người thấy đâu là sự thật nhân loại cần hướng về. Qua Ngài, những cơn cuồng nộ của sự dữ, những bão táp của nhục hình, những tiếng thét hận thù như bị cuốn vào một lực hút vô hình của Tình Yêu thanh khiết. Sức của của tình yêu nơi Chúa Giêsu đã thâu tóm mọi sự xấu xa độc dữ của nhân loại và hóa giải tất cả để biến nên những giá trị mới của hiền lành, khiêm nhường và khoan dung.(x. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin, trang 258-260).

Chúa Giêsu không quỵ lụy, không riên xiết trong cuộc khổ nạn, nhưng Ngài luôn kiên cường và nhẫn nại để mời gọi và mở ra cho nhân loại một cái nhìn về chân lý, về tình yêu, về một Thiên Chúa yêu thương đến cùng. Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền.

Ánh Sáng Tình Yêu chính là Ánh Sáng Phục Sinh. Ánh Sáng ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh. Tin và bước theo Chúa Giêsu, chúng ta được tháp nhập vào tình yêu thanh khiết của Ngài, nhờ đó cuộc sống luôn có niềm vui bình an và hạnh phúc. Thánh Gioan đã đi trọn cuộc khổ nạn cùng với Chúa Giêsu và đã viết những lời thật đẹp, thật ý vị về Tình Yêu Chúa Giêsu: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo”. (1Ga 4,10-12).

—————–

Suy Niệm 5:                       Linh mục Lu-y Nguyễn Quang Vinh

 

ĐƯỜNG LÊN CANVÊ

Phụng vụ Tuần Thánh mời gọi chúng ta đọc lại, suy gẫm và sống trình thuật thương khó của Đức Giêsu. Chúng ta cùng đồng hành với Người tử tội.  Tuần Thánh là cao điểm phụng vụ Kitô giáo, Giáo hội yêu mến và biết ơn Thầy chí thánh của mình, nên Giáo hội hằng năm tổ chức lễ GIỖ của Thầy.  Khi tưởng niệm người đã khuất, người ta thường nhắc lại những việc làm, những lời nói và nhất là những lời trăn trối cuối cùng của họ, để con cháu học hỏi và noi gương bắt chước.

Đường Thánh Giá là một trong những thực hành truyền thống đạo đức bình dân lâu đời nhất, chảy từ tâm huyết của các tín hữu ngay từ ban đầu, mặc dầu tất cả các chặng Đường Thánh Gía không nhất thiết được Thánh Kinh nói đến.  Biết rằng ngoài Kinh thánh, Giáo hội còn có Thánh truyền, là sự chuyển giao sự sống bằng thực hành tôn giáo qua các hình thái đạo đức, bằng sinh hoạt cộng đoàn, được gọi là các tập tục tôn giáo.  Thánh truyền được lưu truyền qua các việc làm đạo đức, và rất được Giáo Hội trân trọng.

Kết án tử hình mở đầu cuộc thương khó cho thấy, từ nay những sức mạnh tối tăm nắm quyền quyết định.  Đức Giêsu bị kết án, vì đối phương của Người không thể chấp nhận Người, họ từ chối các phép lạ Người làm và cho Người là kẻ phá đám và gây nguy hiểm cho an ninh trật tự chính trị xã hội cũng như tôn giáo.  Người đáng phải đóng đinh!  Như thế bản án tử hình của Chúa theo quy trình của luật Rô-ma.

Đức Giêsu xê vai lại vác thập giá; vai tượng trưng cho điểm tựa của trách nhiệm, của sức nặng công việc.  Công việc cứu rỗi là gánh lấy tội lỗi nhân loại đè xuống trên vai, một khi hoàn tất, niềm hy vọng và ơn cứu chuộc nhân loại sẽ được thực hiện, đó là điểm then chốt trong trình thuật nầy.

Một Thiên Chúa ngã quỵ và can đảm đứng lên không than thân trách phận, cho ta bài học khiêm nhường và kiên cường trong thi hành nhiệm vụ và bổn phận.  Người hoàn thành phận vụ bất chấp thất bại và khó khăn.

Đức Mẹ Maria gặp Đức Giêsu đang vác thập giá, một sự đồng cảm và đồng hành chia sẻ gánh nặng và cảm thương giữa Mẹ và Con trong việc cứu chuộc.  Sự hiện diện của Mẹ là sự an ủi nâng đỡ Con. là lời động viên “cố lên Con”.

Ông  Simon vác thập giá giúp Đức Giêsu, cũng như bà Maria Mađalêna lấy nước mắt rửa chân cho Đức Giêsu, các nghĩa cử nầy được nhắc lại và truyền tụng qua mọi thời cho đến tận thế.  Cảm thông và nâng đỡ người lâm cơn hoạn nạn luôn là sự kích lệ cho dù không giải quyết được gì bao nhiêu.

Bà Vêrônica chạy đến lau mặt Đức Giêsu bất chấp sự đe dọa của quân lính Rôma, bà không đồng ý với bản án bất công.  Đấng mà bà lau sạch gương mặt, sẽ lau khô mọi dòng lệ trên con mắt chúng ta, khi chúng ta nhìn thấy Người là ai.

Dù được nâng đỡ trong tình liên đới, Đức Giêsu ngã xuống một lần nữa.  Chắc hẳn trong đám đông có người đã chịu ơn phép lạ của Người, điều chua chát nầy làm Người ngã gí xuống đất.

Với đoàn phụ nữ đi theo than khóc, Đức Giêsu nói với họ đừng than khóc vì Chúa, nhưng hãy than khóc vì chính  tội lỗi mình và vì con cháu của họ, hãy dấn thân trong trách nhiệm hơn là than khóc nặng nề tình cảm.

Ngã xuống rồi lại can đảm đứng lên và bước đi cho đến cùng.  Tới núi Can-vê tất cả y phục bị lột ra, một thân thể bê bết máu me phơi bày không chút thẹn thùng.  Người đã hạ mình xuống tận đất đen như loài sâu bọ!

Bị lột trần, chỉ còn chờ đóng đinh vào thập giá.  Xác thánh nầy đã được bọc trong khăn nay bị đóng đinh vào thập giá.  Đấng chuyển động cả vũ trụ, nay hoàn toàn bất động, vô hại, ngay cả kẻ thù cũng không khiếp sợ gì Người nữa.

Người sắp trút hơi thở cuối cùng, Người nói những lời trối trăn cho Mẹ và cho Gioan, hứa cho người trộm lành thiên đàng, không một lời oán hận nào đã thốt lên.  Không bao giờ có ai đã yêu và chết vì yêu như thế!  Người bình an dâng hiến cuộc đời, tha thứ và yêu thương tất cả.

Nhân loại mà nói, chết là hết.  Thật diễu cợt! Đấng có quyền đặt chúng ta bên hữu Thiên Chúa thì nay lại không có chỗ để đặt xác của Người.  Phải mượn tạm mộ của một ai khác.  Vua cả trời đất, chết vô địa táng!

Trước nấm mộ lạnh lùng của Vua trời đất và sự thinh lặng khó hiểu của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi tin tưởng vào sự sống lại.  Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời!  Hy vọng của chúng ta ở nơi thập giá Chúa Kitô.

Lạy Chúa Giêsu,“chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Giêsu Kitô, vì Chúa đã dùng rất Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ”. Amen

 

WGPKT(09/04/2022) KONTUM