Viên Quan Tòa Và Bà Góa: Vấn Nạn Công Bằng – Dưới Ánh Sáng Lời Chúa (Bài 146)

Trong buổi học hỏi các sứ điệp từ các bài đọc Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXIX Thường Niên hôm nay, xin mạn phép được trình bày với quý ông bà anh chị em chủ đề : “Viên quan tòa và bà góa : vấn nạn công bằng”.

Trước khi đi vào tìm hiểu vấn đề, thiết nghĩ chúng ta nên cùng nhau đọc lại xem giáo lý Công giáo dạy thế nào là công bằng. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo số 1807 dạy rằng :

Công bằng là nhân đức luân lý cốt tại một ý chí liên lỉ và vững chắc, quyết tâm trả lại những gì mình mắc nợ với Thiên Chúa và với người lân cận. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là ‘nhân đức thờ phượng’. Đối với người ta, công bằng là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và thiết lập sự hài hòa trong các tương quan nhân loại, sự hài hòa này đưa tới việc không thiên vị đối với các nhân vị và đối với công ích. Người công bằng, thường được nhắc đến trong Thánh Kinh, có nét đặc biệt là sự ngay thẳng thường xuyên trong các ý nghĩ của mình và ngay thẳng trong cách hành động đối với người lân cận. ‘Ngươi không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào’ (Lv 19,15). ‘Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng có một Chủ ở trên trời’” (Cl 4,1).

Từ định nghĩa và lời dạy trên, xin được chọn lấy ba ý chính để chúng ta cùng đào sâu, đi tìm những lý chứng cũng như các đề nghị thực hành từ nền tảng Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.

1. Thứ nhất, Công bằng là một trong bốn nhân đức trụ (khôn ngoan, công bằng, can đảm, tiết độ)

Nói đến nhân đức là nói đến những gì phải được thường xuyên duy trì và đòi hỏi chúng ta nhẫn nại thực hiện trong ý hướng ngay lành, thiện hảo. Trong Bài đọc hai trích Thư thứ hai gửi cho ông Ti-mô-thê, Thánh Phao-lô tha thiết khuyên nhủ người môn đệ thương mến của mình hãy giữ vững những gì đã được học và niềm tin có được từ Sách Thánh để được ơn cứu độ (x. 2 Tm 3,14-15). Bức thư cũng cho biết đây là một hành trình lâu dài, và chúng ta có thể đoán được rằng, suốt từ thời thơ bé, ông Ti-mô-thê hẳn đã được người mẹ là Ki-tô hữu gốc Do-thái dạy cho biết những gì viết trong Sách Thánh để đem ra thực hành. Ở đây, chúng ta cần lưu ý thêm điều này. Thực hành nhân đức không có nghĩa là chỉ lặp đi lặp lại, là kiên trì giữ đúng theo các khuôn khổ mà thôi, nhưng còn phải hiểu được sâu xa tinh thần của việc thực hành nhân đức nữa. Theo đó, đức công bằng cũng có thể được hiểu là điều cần thiết và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục, để trở nên công chính và để làm các việc lành (x. 2 Tm 3,16-17). Ở cuối Bài đọc hai, một lần nữa, chúng ta lại thấy Thánh Phao-lô tha thiết khuyên ông Ti-mô-thê : hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện ; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ (2 Tm 4,2). Thánh Phao-lô nói như vậy vì người vững tin vào một Thiên Chúa Công Minh : “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền” (2 Tm 4,1). Như vậy, công bằng chính là liều thuốc cho bối cảnh mà đầu chương 3 Thư thứ 2 gửi ông Ti-mô-thê cho biết : Người ta ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn Thiên Chúa ; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ… (x. 2 Tm 3,1-5).

2. Thứ hai, công bằng với Thiên Chúa là giữ lòng thờ phượng, tôn kính và vâng phục

Khác với sự công bằng người ta cần thực hiện cho nhau trong xã hội, sự công bằng đối với Thiên Chúa khởi đi từ lòng biết ơn về tất cả những gì Thiên Chúa thực hiện cho nhân loại nói chung và cho bản thân từng người nói riêng. Bài đọc một trích sách Xuất Hành hôm nay gợi lại cho chúng ta bối cảnh Dân Chúa trong hành trình sa mạc sau khi được cứu thoát khỏi Ai-cập (x. Xh 1,1-15,21) và trước khi Chúa lập Giao Ước với họ tại núi Xi-nai (x. Xh 19,1-40). Dân Chúa phải đói phải khát rồi được Chúa cho ăn cho uống (x. Xh 15,22-17,7). Dân Chúa phải giao chiến với đối phương và nhờ sự trợ giúp của Chúa mà chiến thắng (x. Xh x17,3-13). Họ dựng bàn thờ kính Đức Chúa và nỗ lực bước đi trong đường lối Người (x. Xh 17,14-18,28). Cách riêng, trong câu chuyện chiến đấu với quân A-ma-lếch, chúng ta thấy rõ chiến thắng mà Dân Chúa đạt được là nhờ sự kiên trì cậy trông vào Đức Chúa. Ông Mô-sê cầm gậy của Thiên Chúa và nhờ các trợ tá giúp sức duy trì giữ vững tư thế dang tay cầu nguyện. Cùng lúc đó ông Giô-suê và các dũng sĩ chiến đấu và đánh bại người A-ma-lếch.

Trong phần Thánh vịnh Đáp ca hôm nay, chúng ta càng cảm nghiệm được sâu xa hơn về việc giữ đức công bằng với Thiên Chúa qua tâm tình thờ phượng, tôn kính và vâng phục. Thánh vịnh 120 được hát lên hôm này là một Thánh Vịnh Tín Nhiệm, nhắc chúng ta vững lòng tin tưởng và trông cậy Chúa mọi lúc mọi nơi. Thánh vịnh cũng gồm chứa những lời nguyện diễn tả tâm tình tạ ơn vì tác giả thánh vịnh hiểu rõ căn gốc của ơn phù trợ. Thánh vịnh mở đầu bằng những lời này :

Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,

ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao ?

Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa

là Đấng dựng nên cả đất trời…”

(Tv 120,1-2)

3. Thứ ba, công bằng là tôn trọng quyền lợi, công lý và sống hài hòa trong xã hội

Bối cảnh lịch sử và văn chương của Bài Tin Mừng hôm nay rất đặc biệt. Trích đoạn Tin Mừng nằm ở đoạn gần cuối phần thuật truyện về hành trình Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để chịu thương khó (Lc 9,51–19,27). Khi kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn về bà góa và ông quan tòa, Thánh Lu-ca nói rõ mục đích của Đức Giê-su nhắm tới các môn đệ là “để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Tuy nhiên, khi đặt mình trong bối cảnh thuật truyện của chính dụ ngôn này, chúng ta có thể dễ dàng thực hiện bước “hiện tại hóa Lời Chúa” vào chính môi trường sống của chúng ta hôm nay và lúc này. Tại sao ? Xin thưa, ở cuối Bài Tin Mừng, câu hỏi mà Đức Giê-su đặt ra với các môn đệ cũng là câu hỏi dành cho chúng ta bây giờ : “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18,8). Nói rõ hơn, Đức Giê-su không chỉ dạy những ai tin vào Người phải cầu nguyện luôn, nhưng là còn muốn chúng ta cầu nguyện cho Công Lý của Thiên Chúa hiển trị trong ngày Đức Giê-su Quang Lâm : “Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ” (Lc 18,7).

Cách riêng, qua những nhân vật trong dụ ngôn hôm nay, và nhất là với người kể chuyện và giải thích là chính Đức Giê-su, chúng ta học được những điều thiết yếu trong khi thực hiện đức công bằng xã hội, xét như một đòi hỏi của thời cánh chung khi mà muôn loài muôn vật còn đang chờ đợi Thiên Chúa kết thúc việc hoàn tất mọi sự trong ngày Chúa quang lâm.

 Trước hết, bà góa để lại cho chúng ta gương mẫu tôn trọng quyền lợi và công lý : “đã nhiều lần đến thưa với ông (quan tòa) : Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho” (Lc 18,3). Quả vậy, ý thức về công lý là điều phải được thực hiện trong thế giới hôm nay.

 Thứ đến, như lời ông quan tòa cho biết, chúng ta thấy bà góa này là người biết sống thích ứng với hoàn cảnh xã hội trong khi kiên trì theo đuổi mục tiêu đi tìm công lý cho mình : “nhưng mụ góa này quấy rầy ta mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài…” (x. Lc 18,4-5). Trong đời sống xã hội, sự thiếu vắng công lý nhiều khi có nguyên nhân từ việc con người thiếu kiên nhẫn và can đảm theo đuổi đến cùng.

– Cuối cùng, như chúng ta đã thấy, Đức Giê-su là người kể chuyện, nhưng Người cũng không nói rõ diễn biến cuối cùng hay kết cục của câu chuyện mà sự thường người nghe hay chờ đợi.

Sau hết, bà góa nọ có thắng kiện hay không, chuyện đó không quan trọng và không phải là điều ưu tiên Đức Giê-su nhắm tới. Điều quan trọng nhất là lời mời gọi tin vào Công Lý của Thiên Chúa : “… chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao ? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi ? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ” (Lc 18,7-8).

Ngày mùng 4 tháng 10, lễ Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di vừa qua, Đức Thánh cha Lêô XIV đã ký Tông huấn đầu tiên của người với tựa đề “Dilexi te” (Ta đã yêu ngươi) để kêu gọi một tình yêu dành cho người nghèo. Người tố cáo các cơ cấu bất công đối với người nghèo và nhấn mạnh rằng “không thể tách rời đức tin khỏi tình yêu dành cho người nghèo”. Hôm nay chúng ta đã cùng nhau học hỏi đề tài liên quan đến công bình, công lý. Nhưng sâu xa mà nói, trong Sách Thánh, công bình hay công lý của Thiên Chúa luôn gắn liền với Tình Thương của Người. Trong tâm tình này, chúng ta cùng nhau đọc lại lời Thánh Vịnh và Đáp Ca hôm nay, với ý hướng quyết tâm thực thi đức công bình trên nền tảng lòng thương xót mà Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta, cho nhân loại này và cũng mong muốn chúng ta đem ra thực hành :

Chúng ta tạm kết thúc buổi học hỏi hôm nay về chủ đề liên quan đến “vấn nạn công bằng” với lời Đáp ca và Thánh Vinh hôm nay :

Đ. Ơn phù hộ chúng ta ở nơi danh Chúa,

là Đấng dựng nên cả đất trời.

 

Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,

ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao ?

Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa

là Đấng dựng nên cả đất trời.

Xin Đấng gìn giữ bạn

đừng để bạn lỡ chân trật bước,

xin Người chớ ngủ quên.

Đấng gìn giữ Ít-ra-en,

lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành !

Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn,

chính Chúa là Đấng vẫn chở che,

Người luôn luôn ở gần kề.

Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa, đêm năm canh,

vành nguyệt chẳng hại chi.

Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh,

giữ gìn cho sinh mệnh an toàn.

Chúa giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới,

từ giờ đây cho đến mãi muôn đời.”

 

Lm Gioan Nguyễn Thiên Minh, OP / Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ

Nguồn: tgpsaigon.net