Ngay từ buổi đầu tiếng nói Việt Nam được mang một hình hài, Lời Chúa đã thấm nhập để nó nên một dáng dấp rồi trở thành dáng đứng mang tên Tiếng Việt.

LỜI CHÚA TRONG HÌNH HÀI TIẾNG VIỆT
Dẫn nhập
Trong suốt lịch sử Hội Thánh từ thời các Tông đồ cho tới ngày nay, Kinh Thánh, Lời Chúa luôn đóng vai trò là nguồn mạch của việc loan báo Tin Mừng[1]. Không thể có việc rao giảng Tin Mừng thực sự nếu không có Kinh Thánh.
Trong giai đoạn khởi thủy của việc loan báo Tin Mừng trên quê hương Việt Nam vào đầu thế kỷ 17 (1615-1651), Kinh Thánh chưa được dịch ra phổ biến, và tiến trình này xảy ra khá chậm chạp. Điều này cũng dễ hiểu vì lúc bấy giờ chưa có chữ Việt! Thật vậy, tuy người Việt nói tiếng Việt, nhưng chữ viết chính thức sử dụng lại là chữ Hán và chữ Nôm, là hai thứ chữ rất khó học và cũng không được phổ thông trong dân gian. Hơn nữa, trong suốt thời gian từ trước đó cho đến Công đồng Trentô (1546-1563), việc đọc Kinh Thánh bằng ngôn ngữ địa phương không được khuyến khích, thậm chí bị cấm đoán vì lý do lo ngại bị “lạm dụng”[2]. Các vị thừa sai chủ yếu áp dụng phương pháp truyền giáo cổ điển có từ thời các giáo phụ: tập trung vào Kinh Tin kính (những điều phải tin), Mười điều răn (những điều phải giữ) và Kinh Lạy Cha (những điều phải cầu xin), nhằm truyền bá đạo lý, nghĩa là những chân lý cốt yếu của Kitô giáo[3].
Để có thể phổ biến Lời Chúa được rộng khắp và nhanh chóng, các thừa sai Dòng Tên gồm nhiều quốc tịch: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Pháp từ Ma Cao đến Đàng Trong (18.01.1615) và Đàng Ngoài (19.03.1623) đã dùng mẫu tự tiếng Latinh để ký âm tiếng Việt. Lúc mới đầu cũng chỉ rời rạc, mỗi người theo sở trường tiếng mẹ đẻ của mình, và mục đích chỉ để dùng trong giao tiếp. Về sau dần dần hợp nhất lại thành một lối viết chung để soạn kinh hoặc bài giảng. Chắc chắn các giáo dân và thầy giảng Việt Nam cũng đã là những người cộng tác hữu hiệu nhất với các linh mục trong công việc này.
Cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), linh mục Dòng Tên, người Pháp, đến truyền giáo ở Đàng Trong từ cuối năm 1624 và Đàng Ngoài từ tháng 3 năm 1627, sau thời gian ra sức học tiếng Việt với linh mục Francisco de Pina[4], người Bồ Đào Nha và với em nhỏ Raphaen Đắc Lộ (mang tên theo Cha A. de Rhodes)[5], cũng như làm việc với các thầy giảng người Việt, đã soạn thảo và cho xuất bản hai cuốn sách quốc ngữ đầu tiển vào năm 1651, tại Rôma, với nhan đề: Cathechismus pro iis, qui volunt suscipere baptismum in octo dies divisus (Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội, mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời), và Dictionarium annamiticum, lusitanum, et latinum (Tự điển Việt-Bồ-La).
Khi trình cho Tòa Thánh để xin phép in cuốn Tự điển Việt – Bồ – La và Phép Giảng Tám Ngày, Cha Đắc Lộ đã tỏ bày với Thánh Bộ Truyền Giáo: “…trong khoảng chưa đầy hai mươi lăm năm gần đây, việc ấn hành các phương ngữ của nhiều dân tộc tiếng nói xa lạ có ý nghĩa gì, nếu không là để truyền bá tư tưởng của Lời Thiên Chúa” (trích Tự điển Việt – Bồ – La, phần dịch tiếng Việt, trang 1).
Có thể nói Lời Chúa là ưu tiên hàng đầu trong sứ vụ truyền giáo của Cha Đắc Lộ, đặc biệt thể hiện qua sách giáo lý Phép Giảng Tám Ngày.
Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi xin đề cập đến một nét độc đáo và đặc biệt trong Phép Giảng Tám Ngày: đó là việc trích dẫn hoặc trích dịch Kinh Thánh Cựu ước và Tân ước để trình bày lịch sử cứu độ bằng ngôn ngữ Việt. Điều này có ý nghĩa thật to lớn trong buổi đầu hạt giống Lời Chúa được gieo vãi trên mảnh đất Con Rồng Cháu Tiên bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình. Đồng thời qua đó có thể làm sáng tỏ thêm những vấn đề khác liên quan đến cả tôn giáo và văn hóa tại Việt Nam.

I. Lời Chúa trong Phép Giảng Tám Ngày của Cha Đắc Lộ.
Cuốn Phép Giảng Tám Ngày được viết bằng hai thứ tiếng: Latinh và Việt Nam. Để đối chiếu hai bản văn, tác giả đã đánh dấu mỗi câu hoặc mệnh đề tương đương bằng một chữ theo thứ tự vần a, b, c…
Như tác giả đã bộc bạch, nguyên do cuốn Tự điển Việt – Bồ – La có thêm phần tiếng Latinh là do một số Đức Hồng Y của Thánh Bộ Truyền Giáo gợi ý, để người Việt Nam có thể học thêm La ngữ[6]. Riêng cuốn Phép Giảng Tám Ngày có lẽ còn có một lý do nữa, đó là trong sách này, Cha Đắc Lộ đã trích dẫn rất nhiều câu, đoạn Kinh Thánh, vì vậy việc đặt song song hai cột ngôn ngữ La – Việt sẽ giúp cho việc đối chiếu và hiểu những trích dẫn Kinh Thánh này được càng trung thành với bản Latinh càng tốt. Điều này ta thấy vẫn còn được áp dụng cho gần ba thế kỷ sau, khi điều kiện thuận lợi hơn và Kinh Thánh được dịch trọn bộ bởi Cố chính Linh (Albert Schliklin), khi đó bản văn Kinh Thánh được chia làm hai cột: bản Vulgata Latinh và bản dịch tiếng Việt[7].
Linh mục André Marillier (MEP), từ năm 1955 đến 1961, đã biên soạn để tái bản cuốn Phép Giảng Tám Ngày, với bản Latinh Cathechismus của Cha Đắc Lộ xuất bản tại Rôma năm 1651, đồng thời chép lại phần tiếng Việt theo chính tả hiện đại, viết tiểu dẫn, chú thích và lập các bảng tham chiếu. Trọn phần này của Cha André Marillier được in ở Phần II trong sách “Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm Quốc ngữ đầu tiên”, Nguyễn Khắc Xuyên – Phạm Đình Khiêm, Tinh Việt Văn Đoàn xuất bản năm 1961, nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày Cha Đắc Lộ qua đời (05/11/1660-05/11/1960).
Trong lời Tiểu dẫn, Cha André Marillier cho biết: “Chúng tôi cũng ghi rõ xuất xứ của những lời Kinh Thánh mà tác giả trưng dẫn theo bản phổ thông (Vulgate)” (x. Tiểu dẫn, tr. LXXI).
Sau đây là bản trích dẫn Kinh Thánh ở trang 228-230 của sách “Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm Quốc ngữ đầu tiên” nói trên:

Bản trích dẫn Kinh Thánh
(INDEX CITATIONUM SCRIPTURAE SACRAE)
Sáng thế |
|||
St 1,6 |
69n |
St 3,4-5 |
84 k |
St 1,9 |
71h |
St 3,9-13 |
90c-91y |
St 1,26 |
55u |
St 3,15 |
92e |
St 1,27 |
72f |
St 3,19 |
94d |
St 2,2 |
79n |
St 4 – 5 |
94f-96h |
St 2,3 |
79p |
St 4,7 |
178z-b |
St 2,7 |
73i, 73m |
St 6 – 11 |
96k-101p |
St 2,17 |
74f |
St 9,14-15 |
101o-p |
St 2,21-22 |
76e-g |
St 28-29 |
101q-r |
St 2,23-24 |
76k-m |
St 10-11 |
102t-d |
St 3,3 |
84e |
Xuất hành |
|||
Xh 20,13 |
297i |
Xh 17 |
302r |
Xh 16 |
301c |
Thánh vịnh |
|||
Tv 4,7 |
178x, 279b |
Tv 33,15 |
278y |
Tv 21,18 |
223u |
Tv 83,7, |
49t |
Tv 32,9 |
39t |
Tv 95,5 |
286 p |
Isaia |
|||
Is 7,14 |
148h |
Is 53,2-5.7.12 |
224b-225p |
Giêrêmia |
|||
Gr 29,11 |
148n |
Đanien |
|||
Đn 9,26 |
257g-i |
Hôsê |
|||
Hs 11,4 |
176a |
Mátthêu |
|||
Mt 1,18-19 |
I57e-p |
Mt 24,31 |
272u |
Mt 1,20-21 |
158s-x |
Mt 25,34 |
273n-o |
Mt 2,1-11 |
164m-165d |
Mt 25,41 |
273r-s |
Mt 4,17 |
177i |
Mt 26,14-15 |
209r-u |
Mt 5,17 |
279k |
Mt 26,47-56 |
211m-213q |
Mt 7,12 |
292s |
Mt 26,63-66 |
214l-215r |
Mt 10, 28 |
313d, 281f |
Mt 27,19.24-25 |
219s-220z |
Mt 10,32 |
289k |
Mt 27,28-30 |
218c-h |
Mt 11,19 |
180u |
Mt 27,31 |
221p-q |
Mt 12, 9-13 |
191c |
Mt 27,45 |
227x |
Mt 12,11 |
191k |
Mt 27,51 |
230d-f |
Mt 15,38 |
184s |
Mt 27,52 |
231i |
Mt 17,1-9 |
201a-202m |
Mt 27,54 |
232y-b |
Mt 19,8 |
300n |
Mt 27,59-60 |
241s-242b |
Mt 19,19 |
292r |
Mt 27,63-66 |
242d-i |
Mt 19,28 |
271p-r |
Mt 28,2.3 |
243y-z |
Mt 21,7-9 |
208e-h |
Mt 28,4 |
244b |
Mt 22,37,39-40 |
305e-g |
Mt 28,11-15 |
244c-h |
Mt 24,7.29-30 |
268z-e |
Mt 28,18-20 |
248c-f |
Mt 24,30 |
271i |
Máccô |
|||
Mc 5,28 |
185g |
Mc 14,43-52 |
213m-2l3q |
Mc 6,35-42 |
186n-p |
Mc 14,56 |
214e-f |
Mc 8,1-11 |
183e-184s |
Mc 15,17-19 |
218c-h |
Mc 9,43 |
239l-m |
Mc 15,20 |
221p-q |
Mc 10,45 |
175o |
Mc 16,20 |
255o |
Luca |
|||
Lc 1,28 |
150a |
Lc 9,28-36 |
201a-202m |
Lc 1,30-33 |
150d-g |
Lc 12,8 |
289g-k |
Lc 1,34 |
150k |
Lc 12,40 |
267s-t |
Lc 1,37 |
15ln |
Lc 13,11-16 |
190a-b |
Lc 1,38 |
151s |
Lc 13,13-15 |
191k-n |
Lc 1,39-41.56 |
156r-157c |
Lc 13,14 |
191g-i |
Lc 2,1-7 |
159f-r |
Lc 19,43-44 |
257l-258p |
Lc 2,8-17 |
163c-k |
Lc 22,41,44 |
210g-h |
Lc 2,25-32 |
172h-173u |
Lc 22,47-53 |
211m-213q |
Lc 2,41-50 |
173x-174f |
Lc 23,34 |
224 a |
Lc 2,51 |
172u |
Lc 23,33.39-43 |
225q-226c |
Lc 3,8 |
177n |
Lc 23,43 |
241o |
Lc 5,4-11 |
182r-183d |
Lc 23,46 |
230z-a |
Lc 6,18 |
182q |
Lc 23,47-48 |
232y-b |
Lc 7,11-Ĩ5 |
186s-187b |
Lc 24,26 |
247t |
Lc 8,42-48 |
185c-186l |
Lc 24,50 |
219q |
Gioan |
|||
Ga 2,1-11 |
181a-181m |
Ga 14,15,23 |
315k |
Ga 3,16 |
149r-282q |
Ga 17,2-10 |
211m-213q |
Ga 4,24 |
284 r |
Ga 17,12 |
209n |
Ga 5,1-15 |
192q-194b |
Ga 17,19-23 |
213p-214d |
Ga 6,5-13 |
183e-184s |
Ga 19,2-3 |
218c-h |
Ga 6,69 |
182o |
Ga 19,5 |
219n |
Ga 9,1-39 |
195h-199i |
Ga 19,12 |
220d-e |
Ga 11,1-45 |
203r-204m |
Ga 19,19-22 |
226e-l |
Ga 11,47-54 |
205q-206g |
Ga 19,23-24 |
227m-q |
Ga 12,9-11 |
206k |
Ga 19,25 |
231k |
Ga 13,2, 27 |
210c |
Ga 19,32-34.36 |
231n, 232r |
Công vụ tông đồ |
|||
Cv 1,11 |
250d-e |
Cv 2,4-6.11.16-17.22-24.32-33 |
253p-255g |
Cv 1,14 |
252a |
Cv 5,29 |
295i |
Cv 2,2-4 |
252d-253g |
Cv 17,28 |
54b |
Rôma |
|||
Rm 1,21 |
65q |
Rm 13,1 |
299b |
Rm 5,10; 8,32 |
282s-t |
Galát |
|||
Gl 5,19-21 |
67r-s |
1 Côrintô |
|||
1Cr 1,27 |
256q |
1Cr 15,52 |
271i |
1Cr 11,3 |
77q |
2 Côrintô |
|||
2Cr 5,7 |
135k |
Êphêxô |
|||
Ep 1,4 |
55s |
Ep 6,6 |
295d |
Ep 2,4 |
55s |
Ep 6,16 |
87q-r |
Ep 4,13 |
269r |
Philípphê |
|||
Pl 2,8-9 |
236d, 265c-o |
Pl 4,13 |
55r |
Do thái |
|||
Dt 4,13 |
53r |
Dt 11,10 |
60c |
Dt 11,62 |
58t-u |
1 Phêrô |
|||
1Pr 2,21 |
176y |
1Pr 5,9 |
87q-r |
1Pr 2,22 |
175q |
2 Phêrô |
|||
2Pr 1,4 |
47i, 54k |
2Pr 3,18 |
142p |
2Pr 3,13 |
267n |
1 Gioan |
|||
1Ga 3,18 |
292x |
1Ga 4,19 |
56b |
1Ga 4,10 |
283i |
Khải huyền |
|||
Kh 19,16 |
275q |
Nhìn vào bảng trên, chúng ta ngạc nhiên với phần trích dẫn Kinh Thánh khá dồi dào mà Cha Đắc Lộ đã thực hiện. Cuốn Phép Giảng Tám Ngày xuất bản năm 1651 tại Rôma, do nhà in của Thánh Bộ Truyền Giáo ấn hành, gồm 315 trang chữ viết (chưa kể 9 trang hình ảnh), khổ rộng 17 x 23, mà đã có đến gần 140 trích dẫn Kinh Thánh! Các trích dẫn tập trung nhiều vào sách Khải huyền và 4 sách Tin Mừng, tức tập trung vào công cuộc Thiên Chúa sáng tạo thế giới loài người và cuộc đời của Chúa Giêsu: từ giáng sinh, hoạt động công khai, cuộc thương khó và phục sinh vinh hiển của Người.
Cha André Marillier chắc hẳn cũng đã nghiên cứu kỹ bản Latinh, nên ngoài việc trích dẫn nguồn Kinh Thánh mà ông cho là Cha Đắc Lộ đã trưng dẫn theo bản phổ thông Vulgate (x. Tiểu dẫn), trong phần ghi lại bản Tiếng Việt theo chính tả hiện đại, ông còn để những câu trích dẫn ở trong ngoặc kép…

Để có thể thưởng thức trọn vẹn những trích dẫn Kinh Thánh tiếng Việt nguyên sơ nhất mà Cha Đắc Lộ đã chép, chúng tôi thử đặt chúng bên cạnh bản dịch Kinh Thánh ngày nay. Do khuôn khổ của một bài viết, chỉ có thể chọn một số câu trong số rất nhiều câu đặc sắc, mà khi đặt vào trong toàn thể văn mạch ta mới cảm nếm được hết vẻ trinh nguyên và thú vị.
MỘT SỐ CÂU TRÍCH DẪN KINH THÁNH
Trích KT |
Trong Phép Giảng Tám Ngày 1651 |
Bản dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2011 |
St 2,23 |
Thoắt chốc ông Ađam thức, mà thấy bạn thì rằng: “Xương này bây giờ là xương tao, và thịt này là thịt tao”. |
Con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi !”. |
St 3, 4 |
“Nào có chết đâu, vì chưng Chúa trời đã hay, ngày nào bay ăn phải trái này, thì mở con mắt bay ra, được chức bằng Chúa trời, mà biết sự lành sự dữ!” |
“Chẳng chết chóc gì đâu ! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác”. |
St 3, 9-10 |
Đức Chúa Trời gọi ông Ađam rằng: “Mày ở đâu?” Ông Ađam thì sợ, vì có tội, mà thưa rằng: “Tôi lạy Đức Chúa trời, tôi đã nghe tiếng Đức Chúa Trời trong vườn vui vẻ, mà tôi sợ hãi, vì tôi trần truồng, thì tôi ẩn mình.” Đức Chúa Trời lại phán rằng: “Ai bảo mày, cho mày hay mày ở trần truồng? Thật bởi mày ăn phải trái Tao đã cấm mà chớ!” |
ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?” Con người thưa : “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn.” ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng ? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không ?” |
Is 7,14 |
“Có đến ngày đàn bà đồng thân chịu thai và sinh đẻ con, gọi tên là Emmanuel”. |
“Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. |
Lc 1,30 |
Khi ấy đức thánh thiên thần thưa lại rằng: “Lạy Đức Chúa Bà Maria, chớ sợ làm chi, vì Đức Chúa Bà đã được gratia, đã đẹp lòng Đức Chúa trời, mà Đức Chúa Bà sẽ chịu thai và sinh con, gọi tên là Iesu, ấy là người cả, gọi là Đức Con Đức Chúa trời, làm vua chúa đời đời chẳng cùng”. |
Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả , và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao . Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. |
Lc 1,38 |
“Ay tôi là tôi tá Đức Chúa trời, tôi vâng lời đức thánh thiên thần đem cho tôi” |
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. |
Ga 19,19-22. |
Khi ấy quan Pilato đã chép lệnh Đức Chúa Iesu chịu tội, chữ ba nước Hebreo, Greco, Latino, mà chép làm vậy: “Iesu Nazareno, là vua chúa Iudeo”. Vì vậy nó muốn trong lệnh chép rằng: “Vì Đức Chúa Iesu xưng mình là vua chúa Iudeo”. Vì vậy Pilato có thưa nó rằng: “Tao có chép thể nào, thì phải để chép thể ấy mà chớ”. |
Ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá ; bảng đó có ghi : “Giê-su Na-da-rét, vua dân Do-thái.” Tấm bảng này viết bằng các tiếng : Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô : “Xin ngài đừng viết : ‘Vua dân Do-thái’, nhưng viết : ‘Tên này đã nói : Ta là vua dân Do-thái’.” Ông Phi-la-tô trả lời : “Ta viết sao, cứ để vậy !” |
Ga 19,23-24
|
“Mà quân đóng đanh Đức Chúa Iesu trên Crux đoạn, thì chia áo Người cùng nhau, song le áo trong, vì chẳng có may gì, thì lấy mà rằng: ‘Ao trong này ta chớ xé ra làm chi, ta bỏ thăm xem ai được chớ!’ Mà vậy sấm truyền ông David ra thật khi rằng: ‘Nó thì chia cùng nhau áo Ta, mà trên cái áo Ta mặc trong, thì nó bỏ thăm’”. |
Đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần ; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. 24Vậy họ nói với nhau : “Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. |
Lc 23,46 |
“Đức Chúa Iesu kêu cả tiếng rằng: ‘Lạy Đức Cha, Con phó linh hồn Con ở tay Đức Cha!’ Sau thì gục đầu xuống, cho linh hồn mình ra khỏi xác”. |
“Đức Giê-su kêu lớn tiếng : ‘Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha’. Nói xong, Người tắt thở”.
|
Mt 27,54 Lc 23,47-48.
|
“Cũng có ông cai một trăm quân, khi nghe thấy Đức Chúa Iesu, đang trút linh hồn ra, mà kêu cả tiếng, thì xưng rằng: ‘Thật người này là Con Đức Chúa Trời mà chớ!’”… “Lại đàn người ta hết có đấy thấy động đất và sự khác lạ, thì ăn năn lại, mà đánh ngực về”. |
“Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói : “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” “Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về”. |
Ga 19,36 |
Vậy thì lời trong Kinh Đức Chúa Trời ra thật, khi rằng: “chớ có đánh gãy xương xác Người!” |
Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. |
Lc 23,43 |
“Mày hôm nay ở được cùng Tao trong nơi vui vẻ!” |
“Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. |
Mt 27,63-66 |
“Chúng tôi lạy ông, chúng tôi đã nhớ người này hay dối trá, mà khi hãy còn sống đã nói: ‘từ chết đến ngày thứ ba Tao lại sống lại’.Vì vậy ông phải khiến giữ mả ấy cho đến ngày thứ ba, kẻo đầy tớ ngừơi ấy đến cất lấy trộm, mà rằng cùng dàn đã sống lại. Khi ấy Pilato rằng: “Bay có quân bay giữ, hãy đi mà giữ mặc ý bay!”Bấy giờ nó đi, mà đánh ấn ở nơi mả ấy, lại để quân quanh quể mà giữ vậy”. |
“Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: ‘Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy.’ Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Ông Phi-la-tô bảo họ : “Thì có sẵn lính đó, các người hãy đi mà canh giữ theo cách các người biết !” Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ”.
|
Mt 25,19-20
|
“Tao đã chịu mọi phép lọn, và trên trời và dưới đất: bay hãy đi dạy dỗ khắp người thế, mà rửa tội, khi lấy một phép và một danh Đức Cha, cùng Đức Con, cùng Đức Spirito Sancto, mà dạy nó giữ mọi sự Ta đã khiến bay giữ”. |
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. |
Cv 1,11 |
“Hở người ta Galileo hởi, sao có đứng coi lên trời? Đức Chúa Iesu này bởi trong bay mà lên trên trời, ngày sau có đến cũng thể ấy, như bay đã thấy lên trời”. |
“Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. |
Lc 12,40 |
“Bay hãy ở cho sẵn, vì bay chẳng hay Con Người có đến giờ nào”. |
“Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”. |
Mt 24,7 Mt 24, 29-30
|
“Dân này đánh dân khác, nước này phá nước kia, lại có tật bệnh cùng dại hạn, và động địa nơi này, nơi nọ”; “mà bấy nhiêu sự ấy là dầu hết sự khốn, đến khi khỏi ngày sự khốn ấy, thoắt chốc mặt trời thì tối ra, và mặt trăng chẳng có sáng ra, lại cái sao bởi trời thì té xuống, mà phép trên trời thì động. Cho nên khi ấy mọi loài người ta khóc lóc”. |
“Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi”. “Ngay sau những ngày gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực”. |
Mt 19,28 |
“Tao nói thật cùng bay, vì bay có theo Tao, khi Tao ngồi ở toà cả phán xét, bay cũng ngồi ở mười hai tòa, mà phán xét mười hai dòng nước Israel”. |
“Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”. |
Mt 25,34
|
“Đức Cha Tao khiến bay được mọi sự lành, hãy đến cùng Tao mà chịu lấy phúc trị nước đã dọn cho bay từ tạo thiên lập địa!” . |
“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”. |
Mt 25,41 |
“Bay những kẻ được mọi sự dữ, hãy đi cho khỏi mặt Tao, mà sa xuống trong lửa vô cùng đã sắm sửa cho ma quỷ và cho thiên thần làm bạn nó!”. |
“Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”. |
Ga 4,24 |
“Ai kính lạy Đức Chúa trời, thì phải kính lạy trong linh hồn mà thật thà”. |
“Những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. |
Mt 10,32-33 |
“Ai xưng Tao trước mặt người ta, thì Tao cũng xưng nó trước mặt Đức Cha Tao; mà ai chối Tao trước mặt người ta, thì Tao cũng chối nó trước mặt Đức Chúa trời”. |
“Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. |
Sau khi lượt qua một số câu Kinh Thánh mà Cha Đắc Lộ đã trích dẫn, chúng tôi xin mạo nuội có một vài nhận định sau đây:
II. Một vài nhận định
1. Tên gọi sách Kinh Thánh, Lời Chúa.
+ Cha Đắc Lộ đã sử dụng thành ngữ: “Kinh Đức Chúa Trời” để diễn tả các thuật ngữ: Lời Chúa/ Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh/ Kinh Thánh. Đây là một sáng tạo rất độc đáo, vừa kế thừa văn hóa chữ Hán (kinh=sách, kinh=lời, kinh nguyện), vừa sử dụng yếu tố tiếng Việt mới.
Vd: Vậy thì lời trong Kinh Đức Chúa Trời ra thật, khi rằng: “chớ có đánh gãy xương xác Người!”/ (Nhóm CGKPV): Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập (Ga 19,36).
Như chúng ta biết, theo các nhà nghiên cứu, thuật từ “Thánh Kinh” xuất hiện” chậm nhất là vào năm 1803, khi toàn bộ Cựu ước và một số sách Tân ước được Cha Louis De Poirot, Dòng Tên dịch từ bản Phổ Thông (Latinh) sang tiếng Hoa và được gọi Cổ Tân Thánh Kinh[8]. Vậy mà trước đó gần 200 năm (1651), Cha Đắc Lộ đã viết là “Kinh Đức Chúa Trời”, tức là đã gồm một chữ “Kinh” rất đắt giá còn sử dụng đến ngày nay mà ta gọi: Kinh Thánh.
+ Chữ thứ hai mà Cha Đắc Lộ dùng để gọi các sách Kinh Thánh cựu ước, đó là chữ “Sấm truyền”. Ngài đã gọi các vị tiên tri (ngôn sứ) trong cựu ước là: “kẻ đã chịu sấm truyền”, “người có chịu phép nói sấm truyền”, “người thánh chịu sấm truyền”…và sách các vị tiên tri đã viết ra là sách Sấm truyền.
Vd: “Vì cũng đã hay (bởi ông thánh đã chịu sấm truyền chép ra, mà mình thì đọc liên) đã gần ngày đức Chúa trời khiến cứu chúng tôi. Mà có đêm nào, âu là có đọc trong sấm truyền điều nói rằng: “ Có đến ngày đàn bà đồng thân chịu thai và sinh đẻ con, gọi là Emmanuel” (Is VII,14) (x. Phép Giảng Tám Ngày, sđd, tr.148).
Từ Sấm truyền này Cha Đắc Lộ đã thích nghi từ tâm thức mê tín của người Việt từ thế kỷ 8 cho đến thế kỷ 16, nhất là sấm truyền của Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm (1491-1585) nổi tiếng thời đó. Giáo Hội đã chấp nhận chữ Sấm truyền dùng để gọi sách Kinh Thánh suốt ngót 400 năm từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20[9]. Từ thuật ngữ ban đầu dùng để gọi các sách Cựu ước, về sau Sấm truyền cũng được dùng để gọi các sách Tân ước, và phân chia thành: Sấm truyền cũ, Sấm truyền mới[10].
2. Việc trích dẫn Kinh Thánh
Trong Phép Giảng Tám Ngày, Cha Đắc Lộ có chủ ý dịch Kinh Thánh hay không? Không có tài liệu nào nói Cha Đắc Lộ hoặc các thừa sai đã dịch Kinh Thánh trong giai đoạn 1615-1651, vì những lý do chúng tôi đã nêu ở phần dẫn nhập. Tuy nhiên vào năm 1642, trong Niên giám truyền giáo của vương quốc Đàng Ngoài gửi cho Cha Mutio Vitelleschi, có nói rằng: (…) Các thầy giảng đã dạy giáo lý cho những người muốn trở thành Kitô hữu, cùng các linh mục làm lễ rửa tội, thăm viếng người bệnh, chôn cất người chết. Vào các ngày Chúa Nhật và ngày lễ họ đến nhà thờ…Sau khi học xong giáo lý, họ thuyết giảng hoặc đọc sách theo ngày lễ, về cuộc đời Chúa Kitô, hoặc truyện các thánh, hoặc đọc Phúc Âm (Evangelho). Họ có nhiều sách mà các linh mục đã viết bằng tiếng địa phương, và điều này xảy ra ở các tỉnh khác nhau ở Đàng Ngoài[11].
Sách viết bằng tiếng địa phương có thể là tiếng Nôm hoặc tiếng Việt mới (quốc ngữ). Về sách tiếng Nôm thì lúc bây giờ có thể các thầy giảng vẫn sử dụng tập giáo lý được các thừa sai soạn từ khoảng năm 1621 (hoặc trước đó một hai năm)[12], hay các sách của Cha Giêronimo Maiorica (khoảng 45 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm)…Tuy nhiên về Phúc Âm (Evangelho) thì có thể lúc đó một số câu Kinh Thánh đã được soạn bằng tiếng Việt mới. Sách giáo lý Phép Giảng Tám Ngày trước thời điểm năm 1651, có lẽ cũng đã trãi qua một thời gian nhiều năm được các thầy giảng và linh mục đem sử dụng giảng dạy trong thực tế, được “thử thách” và góp ý chỉnh sửa cho hoàn chỉnh trước khi đem đi in.
Dù sao, những câu trích dẫn Kinh Thánh của Cha Đắc Lộ trong Phép Giảng Tám Ngày, không kể hình thức chữ viết còn thô sơ, thì cách chuyển ngữ thật sáng sủa, dễ hiểu, rất gần với bản dịch Kinh Thánh ngày nay. Có lẽ Cha Đắc Lộ là người đầu tiên đã trích dẫn Kinh Thánh từ bản Latinh ngay từ khi tiếng Việt còn trong nôi. Bởi đó, “mặc dầu Phép Giảng Tám Ngày đối với chúng ta ngày nay đã trở nên lỗi thời vì lời văn cũng như ngôn ngữ, song vẫn còn có một giá trị hiện tại, thời sự và có thể nói được là vĩnh cửu…”[13]
3. Trung thành với đường lối của Giáo Hội và phương pháp giảng dạy linh hoạt, hấp dẫn, đã gợi hứng cho sự ra đời của văn chương Công giáo.
Với việc chọn đường lối trình bày giáo lý theo lối kể chuyện lịch sử cứu độ, bắt đầu từ Thiên Chúa tạo thành trời đất muôn vật và con người, đến cuộc sống đời đời, ngang qua Đấng trung gian là Đức Giêsu Kitô, cùng với việc trở về nguồn Kinh Thánh, Cha Đắc Lộ đã trung thành với đường lối sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Sứ vụ truyền giáo này không khô khan, cứng nhắc nhưng trái lại linh hoạt, hấp dẫn.
Với lối giảng dạy như thế và sau này chép lại thành sách, Cha Đắc Lộ đã góp phần về chất liệu Lời Chúa cũng như gợi hứng để các tín hữu của ngài như công nương Catarina ở xứ Bắc, thuộc hoàng tộc, đã sáng tác nên một tập thơ kể về lịch sử cứu độ từ sáng thế cho đến Chúa lên trời, kèm theo một đoạn lịch sử truyền giáo ở Đàng Ngoài; và linh mục Lữ Y Đoan (1608-1678), ở Đàng Trong, vốn xuất thân từ thầy giảng, là học trò của Cha Đắc Lộ đã soạn nên bộ Sấm truyền ca bằng thơ lục bát (1676), theo trình tự các sách Ngũ Thư của Kinh Thánh[14].
Tạm kết
Ngay từ buổi đầu tiếng nói Việt Nam được mang một hình hài, Lời Chúa đã thấm nhập để nó nên một dáng dấp rồi trở thành dáng đứng mang tên Tiếng Việt. Sứ vụ rao truyền Lời Chúa luôn luôn gắn kết với Thập giá, bằng máu các Thánh tử đạo tại Việt Nam, bằng hy sinh gian khổ, bằng “tự hủy” chính bản thân theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu.
Cha A. de Rhodes với sứ vụ loan báo Tin Mừng hết sức đồ sộ và phong phú tại đất nước Việt Nam: thành lập Giáo Đoàn Đàng Ngoài, củng cố Giáo Đoàn Đàng Trong; thành lập Hội Thầy Giảng để tiến tới nhân rộng đội ngũ linh mục bản quốc, vận động Tòa Thánh bổ nhiệm các Giám mục và thiết lập hai Giáo phận đầu tiên ở Việt Nam; được diễm phúc chứng kiến và thiết lập hồ sơ xin tuyên thánh cho “người chứng thứ nhất” – thầy giảng Anrê Phú Yên…, ông đặc biệt nổi bật trong công trình sáng tạo chữ quốc ngữ và trình bày giáo lý theo một cách thức độc đáo và đặc biệt: đem “Lời Kinh Đức Chúa Trời”– “Sấm Truyền”, tức Kinh Thánh – Lời Chúa để nói cho mọi người biết tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Lê Minh Sơn
Tháng 9.2025
___________________
[1] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 174, Vatican, 2013.
[2] Wim François, Giáo Hội Công giáo và các bản dịch Kinh Thánh sang ngôn ngữ địa phương, Thời sự thần học – Học viện thần học Đa Minh, số 107, tháng 2/2025, tr. 61.
[3] Wim François, sđd, tr. 70.
[4] x. A. de Rhodes, Tự điển Việt – Bồ – La, Rôma, 1651.
[5] x. A. de Rodes, Hành trình và Truyền giáo, Tủ sách Đại Kết 1994.
[6] A. de Rhodes, Tự điển Việt – Bồ – La, cuối Lời dẫn.
[7] Albert Schliklin (1857-1932). Bản dịch Kinh Thánh Cựu ước của ông được phát hành khoảng năm 1913-1914, và bản dịch Tân ước phát hành năm 1916, đều được in song ngữ một bên bản Latinh Vulgate, một bên bản dịch Việt ngữ.
[8] Lm Stêphanô Huỳnh Trụ, Thánh Kính hay Kinh Thánh?
(Nguồn: https://giaophandalat.com/thanh-kinh-hay-kinh-thanh.html)
[9] Năm 1773, bộ Tự điển Việt-Latinh (Dictionnarium Anamitico Latinum) của Đức Cha Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) đã ghi nhận mục từ Sấm truyền là sách Thánh Kinh (Scriptura sacra).
[10] Tự điển Latinh – Việt và Việt – Latinh (hay còn gọi Tự điển Tabert) xuất bản lần đầu năm 1838, ngoài mục Sấm truyền: sách Kinh Thánh, còn ghi nhận các mục từ Sấm truyền cũ (Vetus Testamentum) và Sấm truyền mới (Novum Testamentum).
[11] BA, s. d. Jesuítas na Ásia. Annua da Missão de Tun Kim de 1635-49-V-31, fól. 94.
[12] Lm L. Cadière, Về cách thức dạy dỗ những người giáo hữu đầu tiên, Huế, Đại Việt Thiện Bản, 1944, tr. 246.
[13] Nguyễn Khắc Xuyên, Quan điểm thần học trong “Phép giảng tám ngày” của Giáo sĩ Đắc Lộ, Tạp chí Đại Học, năm thứ IV, số 1, tháng 2/1961, tr. 56.
[14] x. Phạm Đình Khiêm, Nhìn qua những chặng đường thi ca công giáo Việt Nam, dongten.net.