Ủy Ban Giáo Dân: Thường Huấn Tháng 12/2025

Ủy ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam

Ban Nghiên Huấn

THƯỜNG HUẤN GIÁO DÂN THÁNG 12/2025

BÀI I – LOAN BÁO TIN MỪNG VÀ ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN

BÀI II – CANH TÂN CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ ĐỂ TRỞ THÀNH MỘT CỘNG ĐOÀN CỦA CÁC CỘNG ĐOÀN

BÀI III –  LOAN BÁO TIN MỪNG QUA CÁC THỰC HÀNH ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN: CÁC HÌNH THỨC ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN NHƯ ĐỌC KINH, HÀNH HƯƠNG NHƯ PHƯƠNG THẾ LOAN BÁO TIN MỪNG

BÀI IV –  ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG NHƯ NỀN TẢNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI: GIÁ TRỊ BẢN THÂN VÀ TƯƠNG QUAN THIÊNG LIÊNG

BÀI I – LOAN BÁO TIN MỪNG VÀ ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN

Lm. Giuse Maria Lê Quc Thăng

Tin mừng đã được loan báo gần 500 năm qua trên quê hương đất nước mà hiện nay, tỷ lệ người Công giáo chúng ta vẫn còn rất ít ỏi (khoảng 7-8% dân số). Điều này có nghĩa người Công giáo đang cùng sống và làm việc với rất nhiều anh chị em thuộc các tôn giáo khác như Phật giáo, Cao Đài, Nho giáo, Lão giáo … trên quê hương đất nước Việt Nam đa tôn giáo. Trong gia đình các đôi hôn nhân khác đạo ngày càng nhiều, trong cộng đồng các gia đình Công giáo sống với bà con xóm giềng không cùng tôn giáo chiếm đa số, trong mọi môi trường xã hội người Công giáo có rất nhiều mối tương quan, kết bạn với người khác đạo. Vì vậy, có thể nói hàng ngày người Công giáo đang tiếp xúc, gặp gỡ tạo nên những cuộc đối thoại liên tôn trong tương quan cá nhân, gia đình. Trong cuộc gặp gỡ, chung sống, đối thoại như thế thiết tưởng mỗi người Kitô hữu giáo dân cũng cần tìm hiểu để thúc đẩy sự gặp gỡ và hiểu biết lẫn nhau giữa việc loan báo Tin mừng và đối thoại liên tôn. Trong phạm vi bài viết này không nhằm mục đích trình bày giáo huấn, quan điểm của Giáo hội về Đối thoại liên tôn nhưng nhắm giúp người Kitô hữu ý thức hơn trách nhiệm Loan báo Tin mừng qua đời sống chung của mình với mọi người trong xà hội.

1. Mình luôn luôn phải là mình: Sứ mạng Loan báo Tin mừng đòi hỏi người Kitô hữu trên hết và trước hết phải có một đức tin vững vàng, một đức tin được cắm rễ sâu trong đời sống theo Tin mừng của Chúa Kitô, kết hợp với Người. Muốn gặp gỡ, đối thoại mình phải có phẩm chất Công giáo của mình. Điều này mới giúp cho bản thân có khả năng giúp người khác đạo nhận ra Chúa hiện diện nơi chính mình và đứng vững trước những lôi kéo, cám dỗ rời xa đức tin của mình.

2. Nền tảng của việc đối thoại: Để việc đối thoại và chung sống tốt đẹp với anh chị em không cùng tôn giáo cần phải hiểu biết các nền tảng căn bản như: Tôn trọng phẩm giá con người và các giá trị thiêng liêng. Giáo hội Công giáo nhìn nhận những “hạt giống Lời Chúa” và các giá trị luân lý, tinh thần nơi các tôn giáo khác, coi đó là sự chuẩn bị cho Tin mừng. Nguồn gốc thần linh của đối thoại liên tôn được coi là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi và sự hiện diện của Chúa Thánh Thần vượt ra ngoài ranh giới hữu hình của Giáo hội. Tình yêu thương cụ thể và lòng tôn trọng đối với tha nhân là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự hiểu biết và tình thân hữu.

3. Cách thức đối thoại: trong thực tế cuộc sống việc đối thoại với anh chị em tôn giáo bạn không chỉ thuần tuý trong các quan hệ cá nhân, bà con, bạn hữu mà phải nhắm đến mục tiêu sứ mạng Loan báo Tin mừng do đó cần có những cách thức thực tiễn phù hợp thiết lập được mối tương quan chân tình với nhau để thúc đẩy sự gặp gỡ và hiểu biết lẫn nhau.

– Đối thoại cuộc sống: Đây là hình thức đối thoại phổ biến và thiết thực nhất, tập trung vào việc chia sẻ đời sống hàng ngày, những mối quan tâm chung về xã hội, chính trị, môi trường và các vấn đề nhân bản khác.

* Đối thoại hành động: Cùng cộng tác với các tín đồ tôn giáo khác trong các hoạt động từ thiện, bác ái xã hội, thúc đẩy công bằng và hòa bình. Hình thức này giúp xây dựng lòng tin cậy và tình thân hữu qua những hành động cụ thể.

* Hiện diện chứng tá: Loan báo Tin mừng không chỉ bằng lời nói mà trước hết bằng chính đời sống chứng tá của người Kitô hữu, sống đức tin một cách chân thật và đầy bác ái giữa môi trường đa tôn giáKitô hữu phải mở rộng cửa, rộng lòng đón tiếp anh chị em khác đạo. Đừng có một nếp sống khép kín. Ngày hôm nay với tốc độ đô thị hóa ngày càng gia tăng, nếp sống của người dân đô thị trở nên khép kín hơn “đèn nhà ai nhà ny rng” ra vô đi vào chẳng còn quan tâm đến hàng xóm láng giềng. Xã hội ngày càng mất dần đi đạo lý tình làng nghĩa xóm của dân tộc “ti la tt đèn có nhau”, “bán anh em xa mua láng ging gn”. Các gia đình Kitô hữu, các giáo xứ phải đề cao phát triển tinh thần truyền thống tốt đẹp này của dân tộc như là phương thế hữu hiệu để loan báo Tin mừng, để truyền thông đức tin cho người khác.

“Trên đất nước ta, đa số đồng bào là người có tín ngưỡng và tôn giáo, cần có sự đối thoại để hiểu biết, tôn trọng, yêu thương và cùng nhau thăng tiến cuộc sống của mọi người. Sự đối thoại này trước hết phải diễn ra ngay trong cuộc sống hàng ngày giữa các tín đồ cùng sống trong một thôn xóm, khu phố, qua cách giao tiếp, làm ăn, buôn bán với nhau cũng như chia cơm sẻ áo cho nhau. Tôn giáo phải là nền tảng cho người ta xích lại gần nhau.” (Thư Chung HĐGMVN, số 13).

* Hồi Tâm

1/ Trong việc giao tiếp với mọi người chung quanh, tôi có ý thức thể hiện mình là người Công giáo qua cung cách sống Tin mừng của mình không?

2/ Tôi có thái độ thế nào với anh chị em khác tôn giáo chung quang tôi: tôn trọng hay kỳ thị? Cởi mở hay khép kín ? …

3/ Tôi sống và làm việc chung với anh chị em khác đạo như thế nào? Cộng tác chân thành? Kiến tạo tình huynh đệ ra sao?

***************

BÀI II – CANH TÂN CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ ĐỂ TRỞ THÀNH MỘT CỘNG ĐOÀN CỦA CÁC CỘNG ĐOÀN

Lm. Antôn Hà Văn Minh

Trong Huấn thị “Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin mừng của Hội thánh” do Bộ Giáo sĩ ban hành ngày 29/6/2020, đã khẳng định: “Từ lúc khai sinh, giáo xứ được hình dung như đáp ứng cho một nhu cầu mục vụ rõ rệt, cụ thể là đem Tin mừng đến với dân chúng bằng việc thông truyền đức tin và cử hành các bí tích. Nguyên nghĩa của từ “giáo xứ” cho thấy rõ ý nghĩa của cơ chế này: giáo xứ là ‘một ngôi nhà ở giữa các ngôi nhà’ và là lời giải đáp cụ thể mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang sống và hoạt động giữa cộng đoàn. Vì thế, nét đặc trưng cụ thể của giáo xứ là một nơi thờ phượng, một dấu chỉ của việc Chúa Phục sinh luôn hiện diện giữa Dân Người”[1]. Khi nói như vậy Bộ Giáo sĩ đã cố gắng thể hiện tinh thần của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong việc khám phá và tìm tòi trong tinh thần sáng tạo “cách thức tốt nhất để loan báo Tin mừng”[2] .

* Giáo xứ là một cộng đoàn truyền giáo

Giáo luật 1983 điều 515 §1 đã qui định: Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo hội địa phương, và việc săn sóc mục vụ được ủy thác cho cha sở làm chủ chăn riêng, dưới quyền của giám mục giáo phận. Đức Thánh cha Phanxicô lưu ý rằng “giáo xứ là sự hiện diện của Hội thánh tại một lãnh thổ nhất định, là nơi để nghe Lời Chúa, để tăng trưởng đời sống Kitô hữu, để đối thoại, rao giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành”, và ngài khẳng định rằng giáo xứ là “một cộng đoàn của các cộng đoàn”[3]. Việc hiện diện tại một lãnh thổ nhất định không có nghĩa là giáo xứ trở thành một lãnh địa, nhưng phải là một cấu trúc “có tính linh động cao, nó có thể tiếp thu những tình huống khá khác biệt tuỳ theo sự cởi mở và óc sáng tạo truyền giáo của người mục tử và của cộng đoàn”[4].

Có thể nói, nền tảng của việc hình thành cộng đoàn giáo xứ là chăm sóc đời sống đức tin của các tín hữu được qui tụ, Huấn thị của Thánh Bộ Giáo sĩ đã nói: “Giáo xứ có một lịch sử lâu dài, và ngay từ khởi đầu, đã đóng một vai trò nền tảng trong đời sống Kitô hữu, trong sự phát triển và hoạt động mục vụ của Hội thánh”[5]. Thật vậy, nhìn vào lịch sử hình thành giáo xứ, khởi đầu là một cộng đoàn thuộc một nhóm tín hữu được qui tụ chung quanh các Tông đồ và sau này là giám mục, càng ngày số tín hữu càng đông, nhất là sau sắc chỉ Milano năm 313 về tự do tôn giáo, nhiều cộng đoàn tín hữu được hình thành và giao cho một linh mục chăm sóc, nhiệm vụ chính của linh mục coi sóc là giảng Lời Chúa, dạy giáo lý, cử hành thánh lễ và các bí tích, thăm viếng bệnh nhân… chủ yếu là những công việc liên quan đến giảng dạy, thánh hóa, hướng dẫn và chăm sóc mục vụ. Có thể nói, nhiệm vụ truyền giáo của cộng đoàn giáo xứ chưa được đề cập đến cách rõ nét, cho dẫu tự bản chất cộng đoàn giáo xứ là cộng đoàn truyền giáo.

Mãi cho đến Công đồng Vatican II, mới đề cập đến nhiệm vụ truyền giáo của cộng đoàn giáo xứ. Giáo xứ không còn là một cộng đoàn sống co cụm khép kín, chỉ lo giữ đạo, thiếu mối tương quan với cộng đồng xã hội. Công đồng nhắn nhủ: tất cả các Kitô hữu, dù sống ở đâu, đều phải dùng chứng tá và gương mẫu đời sống là làm chứng cho Tin mừng, và “để có thể làm chứng về Chúa Kitô cách hữu hiệu, chính các Kitô hữu phải liên kết với mọi người chung quanh với thái độ tôn trọng và yêu thương, phải biết mình là thành phần của cộng đồng mình chung sống, và tham gia đời sống văn hóa, xã hội qua những giao tiếp và hoạt động khác nhau trong cuộc sống nhân loại; phải hiểu rõ các truyền thống dân tộc và tôn giáo cũng như phải vui mừng và chú tâm khám phá ra những hạt giống Lời Chúa đang tiềm ẩn trong đó” (AG số 11). Công đồng yêu cầu: “Các nhà truyền giáo, những cộng sự viên của Thiên Chúa, phải gầy dựng những cộng đoàn tín hữu biết sống xứng đáng với ơn gọi của mình, để có thể thi hành các chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế mà Thiên Chúa đã trao ban. Đó chính là cách thế để cộng đoàn Kitô hữu trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi trần gian” (AG số 15). Và Công đồng khích lệ các tín hữu tại giáo xứ phải là những con người truyền giáo qua việc tham gia các công việc truyền giáo qua các hoạt động tông đồ giáo dân (x. AG số 41).

Trong sắc lệnh về Tông Đồ Giáo dân (AA), một lần nữa Công đồng nhấn mạnh đến vai trò của giáo xứ trong công việc tông đồ giáo dân: “Giáo xứ là một hình thức tông đồ cộng đồng kiểu mẫu, vì đó là nơi qui tụ mọi hạng người thành một cộng đoàn và đem họ vào tinh thần đại đồng của Giáo hội” (AA số 10). Với ý hướng này, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã làm sáng tỏ lý do hiện hữu của giáo xứ: “Tất cả chúng ta phải lấy lòng tin khám phá lại dung mạo đích thực của giáo xứ, tức là chính ‘mầu nhiệm’ Giáo hội đang hiện diện và hoạt động trong giáo xứ.[…] giáo xứ tiên vàn không phải là một cơ cấu, một lãnh địa, một tòa nhà; nhưng trước hết, ‘giáo xứ là gia đình của Thiên Chúa, là cộng đoàn huynh đệ chỉ có một tâm hồn’. […] giáo xứ được xây dựng trên một thực tại thần học, vì đó là một cộng đồng Thánh Thể. Thánh Thể là nguồn gốc sống động cho sự thiết lập và phát triển của giáo xứ, và là mối dây bí tích để giáo xứ hiệp thông hoàn toàn với toàn thể Giáo hội.”[6]. Vì hiệp thông hoàn toàn với Giáo hội nên giáo xứ cũng mang trong mình bản chất truyền giáo của Giáo hội, nên giáo xứ phải là môi trường để mọi giáo dân ra sức nỗ lực làm cho sự hiệp thông đích thực trong Giáo hội được tăng trưởng ngay trong lòng giáo xứ của mình và khơi dậy hứng khởi truyền giáo cho những người không tin và cho cả những tín hữu đã từ bỏ hay hời hợt với đời sống Kitô hữu.”[7]

Bởi mang trong mình chính sứ vụ của Giáo hội, “giáo xứ phải sống và sinh hoạt gắn bó mật thiết với xã hội con người và liên đới sâu xa với những khát vọng cũng như thảm trạng của họ. [….] Giáo xứ có thể đáp ứng được ước vọng đó nếu, nhờ sự tham gia tích cực của giáo dân, giáo xứ trung thành với ơn gọi và sứ vụ nguyên thủy của mình: giữa thế gian, là ‘nơi’ hiệp thông các tín hữu, đồng thời là ‘dấu chỉ’ và ‘khí cụ’ của lời mời gọi mọi người sống hiệp thông; nói tóm lại, giáo xứ phải là ngôi nhà rộng mở để đón nhận mọi người và phục vụ mọi người, hay như kiểu nói ưng ý của Đức Gioan XXIII, giáo xứ là giếng nước đầu xóm, nơi mọi người đến giải khát”[8].

Để được như thế, Thánh Bộ Giáo sĩ đã kiến nghị về việc canh tân giáo xứ để giáo xứ thực sự trở thành một cộng đoàn truyền giáo. Canh tân không có nghĩa là hủy bỏ cấu trúc địa giới truyền thống của giáo xứ, bởi “giáo xứ vẫn là một tổ chức thiết yếu quan trọng hàng đầu trong cơ cấu hữu hình của Hội thánh”[9]. “Giáo xứ là ngọn hải đăng tỏa chiếu ánh sáng đức tin và như thế đáp ứng những khát vọng sâu xa và chân thực nhất của tâm hồn con người, đem lại ý nghĩa và hy vọng cho đời sống cá nhân và gia đình”[10]. Tuy nhiên phải nhìn đến hiện tình của cuộc sống xã hội đương đại, trong đó “tính di động gia tăng và nền văn hóa kỹ thuật số mở rộng các ranh giới của đời sống. Một mặt, ngày nay người ta ít gắn bó hơn trong một khung cảnh địa lý rõ ràng và cố định, mà lại sống trong ‘một ngôi làng toàn cầu và đa nguyên’; đàng khác, không thể tránh khỏi nền văn hóa kỹ thuật số làm thay đổi khái niệm về không gian, cùng với ngôn ngữ và hành vi của con người, nhất là nơi thế hệ trẻ”[11]. Vì thế, giáo xứ không còn là nơi tụ họp mang tính cục bộ địa phương, chỉ lo chăm chút những truyền thống và đặt nặng yếu tố “người trong nhà”. Thánh Bộ Giáo sĩ đã cảnh báo: “Những hoạt động theo thói quen đều đặn không có tác động gì đến đời sống con người cụ thể sẽ chỉ là một cố gắng sống còn cằn cỗi, thường chỉ được mọi người thờ ơ đón nhận. Nếu giáo xứ không sống tinh thần năng động loan báo Tin mừng, thì có nguy cơ giáo xứ tự quy chiếu vào chính mình và xơ cứng, cho những kinh nghiệm thiếu hương vị Tin mừng và thiếu lòng nhiệt thành truyền giáo, chỉ biết đến những nhóm nhỏ mà thôi”[12].

* Giáo xứ cộng đoàn của các cộng đoàn

Ngày nay Giáo hội yêu cầu “giáo xứ cần phải tìm ra những hình thức mới để đồng hành và gần gũi qua các sinh hoạt thường ngày”[13]. Điều này có nghĩa giáo xứ không chỉ là một cộng đoàn được qui định bởi một ranh giới địa lý, nhưng còn phải là một cộng đoàn được qui tụ trong một “lãnh thổ hiện sinh”. Thánh Bộ Giáo sĩ nhấn mạnh: “Lãnh thổ giáo xứ không chỉ là một không gian địa lý, mà còn là bối cảnh nơi đời sống con người được thể hiện qua các mối quan hệ, qua việc phục vụ lẫn nhau và qua truyền thống lâu đời. Chính trong “lãnh thổ hiện sinh” này, mà Hội thánh đang phải đối diện với những thách đố đang diễn ra ngay trong lòng cộng đoàn”[14].

Trong chiều hướng này, Thánh Bộ Giáo sĩ muốn các giáo xứ canh tân để giáo xứ thực sự là một cộng đoàn kiến tạo nên các cộng đoàn, mang dáng dấp về một Cộng đoàn cơ bản (Basic Ecclesial Communitie), có nghĩa là một cộng đoàn được hình thành một nhóm nhỏ các Kitô hữu sống gần nhau (cùng xứ, cùng khu phố, cùng xóm), quy tụ lại để cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, chia sẻ đức tin và giúp đỡ nhau sống đạo trong đời thường. Cộng đoàn cơ bản là hình thức tiếp nối cộng đoàn đã được hình thành từ rất sớm, ngay từ buổi bình minh của Giáo hội. Sách Công vụ Tông đồ tường thuật: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, hiệp thông, bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2,42), và “Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ và bẻ bánh tại tư gia” (Cv 2,46).

Canh tân giáo xứ để giáo xứ mở rộng cánh tay, đi ra khỏi chính mình, khích lệ và đón nhận các cộng đoàn được qui tụ với một mục đích duy nhất: xây dựng Nước Chúa. Vì thế, việc canh tân giáo xứ để trở thành cộng đoàn loan báo Tin mừng đòi hỏi giáo xứ phải kiến tạo “một cách tiếp cận mới với những sáng kiến mục vụ đa dạng, làm sao cho Lời Chúa và đời sống bí tích có thể chạm tới từng người tùy theo bậc sống của họ. Ngày càng thấy rõ hơn rằng tư cách thành viên của Hội thánh ngày nay không hệ tại ở nơi ta sinh ra và lớn lên, cho bằng là việc ta tham dự vào một cộng đoàn do được thừa nhận”[15]

Các cộng đoàn Kitô hữu mang tính cộng đoàn cơ bản có thể là các đoàn thể tông đồ như: cộng đồng di dân, Legio Mariae, Phong trào Cursillo, Nhóm canh tân Gia đình, Khôi Bình, Hội Mân Côi. Hội doanh nhân Công giáo, Hội giới chức Công giáo, v.v…. những đoàn thể này được qui tụ không nhất thiết phải là những người có chung một địa giới giáo xứ, nhưng có chung một ý hướng: làm chứng cho Tin mừng trong một môi trường cụ thể của cuộc sống. Một nhóm Kitô hữu được qui tụ theo hoàn cảnh sống, nghề nghiệp được xây dựng trên tình bằng hữu, kết nối tình huynh đệ, và đây là khởi điểm cho công việc làm chứng tá cho Tin mừng, vì “qua các mối tương quan liên vị sinh ra niềm tin tưởng và hy vọng. Thời đại ngày nay vốn được ghi dấu bởi sự thờ ơ, cá nhân chủ nghĩa và không chấp nhận người khác, nên việc tái khám phá tình huynh đệ là rất quan trọng và cần thiết vì sứ vụ loan báo Tin mừng, gắn bó mật thiết với các mối quan hệ nhân linh”[16].

Các cộng đoàn Kitô hữu được qui tụ không gì hơn là sử dụng cái đặc thù riêng của cộng đoàn tạo nên một nền “văn hóa gặp gỡ” giữa cá nhân với cá nhân, giữa cộng đoàn với cộng đoàn. Trong mối tương quan gặp gỡ này, các cộng đoàn “lấy con người làm trung tâm nên thúc đẩy việc đối thoại, liên đới và cởi mở đón nhận người khác. Bởi thế, giáo xứ cần phải là ‘nơi chốn’ đặc biệt cho sự gắn kết mọi người với nhau và nuôi dưỡng các mối tương quan cá nhân lâu bền, từ đó giúp người ta cảm nhận mình thuộc về và được yêu thương”[17]. Giáo xứ là môi trường kiến tạo sự đa dạng giữa các cộng đoàn làm nên sự hiệp nhất để từ đó, không một ai trong cộng đoàn giáo xứ bị loại trừ hay là đứng bên lề, nhưng tất cả mọi người đã được rửa tội, “nhờ ơn Chúa Thánh Thần và các đặc sủng đã lãnh nhận, thể hiện như một tác nhân tích cực của việc Phúc-âm-hóa, theo phong cách và phương thức của một cộng đoàn có tổ chức, cùng với những cộng đoàn giáo xứ khác cũng như với việc mục vụ của toàn giáo phận”[18]. Đức Thánh cha Phanxicô đã lưu ý rằng “giáo xứ là sự hiện diện của Hội thánh tại một lãnh thổ nhất định, là nơi để nghe Lời Chúa, để tăng trưởng đời sống Kitô hữu, để đối thoại, rao giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành”, và ngài khẳng định rằng giáo xứ là “một cộng đoàn của các cộng đoàn”[19].

Kết

Đức Thánh cha Phanxicô trong Tông huấn Niềm vui Tin mừng đã nhấn mạnh: “Giáo hội phải đi sâu vào để nhận thức chính mình, suy gẫm về mầu nhiệm của mình […]. Trong Giáo hội, có những cơ chế cản trở nỗ lực loan báo Tin mừng, cũng thế, những cơ chế tốt chỉ có ích khi có một sức sống liên lỉ khởi động, nâng đỡ và lượng định chúng. Nếu không có một sức sống mới và một tinh thần Phúc âm thực sự, nếu Giáo hội không “trung thành với ơn gọi của chính mình”, thì mọi cơ chế mới nào chẳng bao lâu cũng sẽ bị biến chất”[20], vì thế giáo xứ phi nỗ lực canh thành để trở thành ngôi nhà chung của mọi người, phải kiến to giáo xứ không bị đóng khung trong một lãnh thổ nhất định, nhưng là một cộng đoàn rộng mở, một cộng đoàn kết nối bằng tình huynh đ và tình bằng hữu xã hội. Tài liệu làm việc châu lục chuẩn bị Thượng Hội đng Giám mục Thế giới lần thứ XVI đã lấy chủ đề: “Hãy nới rộng lều ngươi đang ở (Is 54, 2), việc nới rộng lều đòi hỏi phải đón nhận những người khác, dành chỗ cho sự đa dạng của họ. Vì thế, vì yêu thương chính mình phải sẵn sàng chết đi, để tìm lại được mình trong và qua mối tương quan với Chúa Kitô và người thân cận”[21], đây cũng là gợi ý cho mỗi giáo xứ cần phải mở rộng để giáo xứ trở thành cộng đoàn của các cộng đoàn.

Trong tinh thần canh tân giáo xứ để trở thành cộng đoàn hiệp thông loan báo Tin mừng, giáo xứ đón nhận và thiết lập các cộng đoàn Kitô hữu, nỗ lực “tìm ra những cơ cấu giúp mọi thành phần trong cộng đoàn Kitô hữu thực hiện ơn gọi chung loan báo Tin mừng, nhắm đến việc chăm sóc mục vụ hữu hiệu hơn cho Dân Chúa, mà “chìa khóa” cho việc đó là sự gần gũi”[22]. Tuy nhiên, khi qui tụ các cộng đoàn Kitô hữu, chúng ta cần phải đặc biệt xét đến “tính thuần nhất của dân chúng trong vùng và các tập quán của họ, cũng như những nét đặc trưng chung trong khu vực, hầu tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ gần gũi giữa các cha xứ và các tác viên mục vụ khác”[23].

********************

BÀI III –  LOAN BÁO TIN MỪNG QUA CÁC THỰC HÀNH ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN: CÁC HÌNH THỨC ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN NHƯ ĐỌC KINH, HÀNH HƯƠNG NHƯ PHƯƠNG THẾ LOAN BÁO TIN MỪNG

Phaolô Lê Quang Hùng

Nếu những nghi thức phụng vụ chính thức của Hội thánh (như bí tích, Thánh lễ, kinh phụng vụ,…) mang lại muôn vàn ơn ích, thì những hình thức đạo đức bình dân (như lần chuỗi, đọc kinh, viếng Chúa, làm dấu thánh giá,…) đem đến những hiệu quả không hề nhỏ trong đời sống tâm linh của người giáo dân và có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với công cuộc loan báo Tin mừng.

Những hành vi đạo đức bình dân chắc hẳn phải phát xuất từ sự tôn kính Thiên Chúa hết mình và lòng yêu mến tha nhân thật sự. Quả vậy, “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình… Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 7,45). Rồi cũng nhờ chính những hành vi đạo đức ấy nhắc nhớ và thúc giục ta sống mạnh mẽ mệnh lệnh “mến Chúa yêu người” hơn. Một khi mến phục chúng ta biết luôn sống yêu thương chan hòa, mọi người không thể coi thường những hành vi đạo đức bình dân của chúng ta.

Lòng mến phục ấy dần dần sẽ ảnh hưởng tích cực lên đời sống thường ngày của họ.

Phải nhìn nhận rằng niềm tin vào Chúa không hẳn đến từ sự suy luận của lý trí, cũng không luôn phát xuất từ những tác động siêu nhiên vô hình. Câu kinh đơn sơ được đón nghe từ đôi tai. Hình ảnh mộc mạc được ghi nhận bởi ánh mắt. Lời nguyện chân thành được thốt ra nơi môi miệng… Tất cả đều tô đậm thêm tình yêu thương đối với Thiên Chúa và lòng cảm mến đối với tha nhân. Tất cả đều có sức đánh động con tim của biết bao người cũng luôn khao khát cuộc sống yêu thương nhau và gắn bó với một ‘Đấng Trên Cao’.

Nhìn ngược về lịch sử của Giáo hội Việt Nam thuở ban đầu và vào thời bách hại. Vắng linh mục, thiếu nhà thờ, không thánh lễ,… nhưng niềm tin có lẽ không hề suy giảm. Đó chẳng phải nhờ những thực hành đạo đức bình dân đó sao? Họ chỉ biết lần chuỗi, đọc kinh, hát thánh ca,… Những việc làm đó không chỉ để nuôi dưỡng đời sống đạo của chính mình mà còn thu hút được lòng ngưỡng mộ và muốn ‘nhập cuộc’ của rất nhiều người.

Vài câu chuyện phần nào cho thấy hiệu quả “Loan báo Tin mừng” của những việc đạo đức bình dân ấy:

Có dịp đặt chân đến một giáo điểm vùng quê, mới nhận ra sức mạnh ‘kỳ diệu’ của những hình thức đạo đức bình dân đến mức nào! Hàng trăm lương dân mỗi Chúa nhật ‘lặn lội’ đến nhà thờ chỉ để được đọc kinh lần chuỗi, được cùng nhau cầu nguyện, được nghe giảng về Chúa, được hát những bài thánh ca, được nhìn thấy những sinh hoạt đạo đức bình dân,… Họ chưa lãnh nhận bí tích nào cả. Họ cũng không hiểu biết nhiều về những nghi thức phụng vụ. Ấy vậy mà biết bao nhiêu người được biến đổi tốt hơn. Họ ngong ngóng mong chờ đến ngày Chúa nhật. Họ hớn hở mỗi khi gặp gỡ nhau. Họ có thể thầm thĩ trò chuyện với Chúa. Họ cảm nhận được Chúa yêu thương và thực sự bình an trong cuộc sống… Vậy thì, chắc chắn Tin mừng đã đến với họ rồi.

Được tham gia những chuyến hành hương – có cả những người ngoài đạo – đặc biệt trong Năm thánh, mới thấy rõ hiệu quả của những chuyến hành hương ấy! Không ít giọt nước mắt của hối cải! Đầy ắp tiếng cười của niềm vui! Gắn kết hơn! Cảm thông hơn! Sẵn sàng chia sẻ những gì mình có, và khiêm tốn đón nhận những thứ mình cần! Đó là hành trình gặp lại chính mình để biết hoán cải, gặp gỡ anh em để tha thứ yêu thương, và nhất là, gặp được Chúa để tâm hồn được bình an! Quả là, Tin mừng đã được loan báo.

Một câu chuyện được chính đương sự kể: “Tôi không rõ vì sao mẹ tôi có đạo còn tôi thì không. Bà ấy rất ngoan đạo còn tôi thì chẳng quan tâm, thậm chí không chút thiện cảm. Ngoài những lúc làm việc, tràng chuỗi dường như không bao giờ rời xa khỏi tay mẹ tôi. Đôi lúc tôi bực mình vì điều đó. Thế nhưng, chính sự kiên nhẫn chịu đựng, lòng nhân ái bao dung, tâm hồn luôn thanh thản bình an trong cuộc sống của mẹ đã đánh thức tôi. Tôi dám chắc mẹ tôi sống được như thế phần lớn nhờ lời kinh từ tràng chuỗi ấy. Hiện giờ tôi đã là người có đạo và rất yêu mến tràng chuỗi của mẹ tôi để lại cho. Nhờ kinh Mân côi mà mẹ đã gieo vào tôi niềm tin vào Chúa. Và giờ đây, cũng chính nhờ chuỗi Mân côi, mẹ luôn được tôi nhớ đến trong kinh nguyện mỗi ngày”. Rõ ràng, cầu nguyện bằng kinh Mân côi có sức truyền giáo, bởi tinh thần của kinh Mân côi sẽ lan tỏa sự bình an…

Cô bạn đồng nghiệp đứng lớp đã nhiều năm. Được Cha giải tội khuyên nên làm dấu thánh giá trước giờ dạy. Bối rối vào những ngày đầu. Ngượng nghịu trước mặt học trò. Băn khoăn khi thấy đồng nghiệp. Dè dặt đối với cấp trên. Nhưng,… cứ ‘bấm bụng’ làm cho đến lúc dường như đã trở thành thói quen. Và có lẽ học trò cũng nhìn thấy điều đó là bình thường. Ngày kia, do vội vì đến lớp trễ, Cô không làm dấu. Vài ba học trò (không có đạo) xì xào và hỏi nhắc “Cô quên làm dấu thánh!”… Chúng cho biết từ lúc Cô làm dấu, Cô dễ thương hơn, dạy hay hơn và đặc biệt là chúng yêu Cô hơn. Đúng thật, niềm vui từ một hình thức đạo đức bình dân không chỉ đến với chính mình, nó còn có sức lan tỏa, tuy âm thầm, nhưng rất mãnh liệt.

Thuở còn bé, cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, ở giáo xứ tôi, nhà nào cũng có hang đá, cây thông, ngôi sao,… trước nhà, bất kể có đạo hay không. Những bài hát thánh ca được vang lên khắp khu xóm. Những giờ kinh tối sốt sắng trước hang đá lấp lánh ánh đèn. Những cuộc rước kiệu Chúa Hài Đồng cách trang nghiêm quanh nhà thờ. Tuy pha lẫn chút không khí vui tươi bên ngoài, nhưng những hình thức ấy vẫn gieo vào tâm trí, không chỉ người có đạo mà cả lương dân, ý thức về một Thiên Chúa của Đạo Yêu Thương, và nhất là khơi dậy lòng tin và niềm vui trong tâm hồn mỗi khi được nghe tiếng hát “Bình an dưới thế cho những người lòng ngay”(Lc 2,14).

Niềm vui ân sủng và bình an của Thiên Chúa trao ban cho con người chúng ta qua muôn vàn cách thức. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng:“Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đó, giữa họ”(Mt 18,20). Sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài mỗi khi chúng ta quy tụ lại với nhau, không chỉ để cử hành những nghi thức phụng vụ, mà ngay cả ở những việc đạo đức bình dân. Sự hiện diện ấy luôn mang đến cho con người sự bình an đích thực cho bất cứ ai khao khát tình yêu thương tròn đầy mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban tặng.

Các hình thức đạo đức bình dân quả là một trong những “món ăn” rất bổ dưỡng trên hành trình đức tin của người tín hữu và cũng rất “hợp khẩu” cho bước khởi đầu của hành trình ấy. Đó là một phương thế rất hữu hiệu cho sứ mạng loan báo Tin mừng.

Hồi tâm:

  1. Hình thức đạo đức bình dân nào giúp tôi ý thức và sống tinh thần truyền giáo một cách hiệu quả nhất, và tôi đã thực hiện những việc làm đó như thế nào?

  2. Có những khoảnh khắc nào trong cuộc đời làm tôi phải ngại ngùng, thậm chí còn xấu hổ, với những hành vi đạo đức bình dân đến độ không dám thực hiện? Việc gì? Và nhờ đâu mà tôi được biến đổi?

  3. Có phải nhờ những việc đạo đức bình dân mà tôi luôn phải điều chỉnh lối sống của mình cho xứng hợp với ân huệ làm con Chúa và để qua những việc làm ấy, mọi người dễ dàng đón nhận Thiên Chúa đầy lòng thương xót và rất mực yêu thương?

*********************

BÀI IV –  ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG NHƯ NỀN TẢNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI: GIÁ TRỊ BẢN THÂN VÀ TƯƠNG QUAN THIÊNG LIÊNG

Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Ngoạn

Trong một thế giới hiện đại đang chạy theo chủ nghĩa tiêu thụ và vật chất vô thần, con người dù có đầy đủ tiện nghi vẫn không bao giờ hết những khắc khoải nội tâm. Dường như càng sống trong một môi trường ồn ào, gấp gáp và thực dụng, con người lại càng cảm thấy trống rỗng và khao khát một điều gì đó sâu xa hơn. Đó chính là nhu cầu tìm kiếm đời sống thiêng liêng – nhu cầu nội tại giúp con người hiểu mình, hiểu cuộc sống và tìm thấy ý nghĩa hiện hữu. Đời sống thiêng liêng là chiều kích gắn liền với nhân tính, giúp con người mở ra với Chân – Thiện – Mỹ, hướng tới sự hoàn thiện toàn diện và bước vào mối tương quan đích thực với tha nhân và với Thiên Chúa.

Trước hết, đời sống thiêng liêng là nền tảng của sự phát triển chính con người. Con người không chỉ là một thực thể vật chất hay tâm lý, nhưng còn là một hữu thể thiêng liêng. Ngoài thể xác, trí khôn, cảm xúc, con người có linh hồn – nguyên lý cao nhất làm nên sự sống. Chính linh hồn cho phép con người suy nghĩ cách tự do, phán đoán cách đúng đắn và hành động theo ý chí. Linh hồn con người không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian, nhưng có khả năng hướng vượt trên vật chất để tìm kiếm một thực tại cao hơn. Nhờ đó, đời sống thiêng liêng trở thành chiều kích thiết yếu, chứ không phải phụ thuộc vào cảm xúc hay sự tùy tiện của mỗi người.

Đời sống thiêng liêng không chỉ thể hiện trong tôn giáo, mà còn qua nhiều hình thức khác: cảm nghiệm cái đẹp qua nghệ thuật, khao khát sự thật, khả năng yêu thương vô điều kiện, hành vi đạo đức, tinh thần vượt lên cái tôi để sống cho tha nhân. Người có đời sống thiêng liêng là người biết sống nội tâm, biết lắng nghe bản thân, biết tìm kiếm những điều cao quý và sống với những giá trị vượt lên lợi ích vật chất. Nhờ đó, họ có một đời sống định hướng, có chiều sâu, biết dừng lại để tự hỏi về ý nghĩa cuộc sống, và biết sống đúng với phẩm giá của mình.

Từ đời sống thiêng liêng, con người nhận ra giá trị bản thân. Giá trị đích thực không đến từ tài sản, thành công hay các danh hiệu bên ngoài. Con người có giá trị vì mỗi người được tạo dựng cách độc đáo, mang hình ảnh Thiên Chúa và có một phẩm giá không ai có thể tước đi. Khi bước sâu vào đời sống thiêng liêng, con người hiểu rõ mình hơn: biết mình yếu đuối nhưng cũng biết mình được yêu thương; biết mình giới hạn nhưng cũng biết mình có khả năng vươn tới điều tốt đẹp. Từ ý thức đó, con người nuôi dưỡng lòng tự trọng, sự khiêm nhường, sự đồng cảm và lòng yêu thương dành cho bản thân và cho người khác.

Đời sống thiêng liêng giúp con người đứng vững trước những thử thách của xã hội hiện đại. Trong một thế giới hỗn loạn, đầy bạo lực và tội ác, người không có đời sống nội tâm dễ bị cuốn theo những giá trị phù du, đánh mất chính mình. Nhưng người có đời sống thiêng liêng biết tìm lại sự bình an trong cầu nguyện, trong hồi tâm và trong việc sống theo Thánh ý Chúa. Sự bình an ấy không phải là sự an nhàn bên ngoài, mà là sức mạnh bên trong giúp con người làm chủ bản thân, đối diện với thử thách bằng niềm tin và lòng tín thác.

Cầu nguyện và hồi tâm là những phương thế quan trọng nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng. Khi cầu nguyện, con người đứng trước Thiên Chúa để nhìn lại cuộc đời mình. Họ nhận ra những điểm mạnh cần phát huy, những yếu đuối cần hoán cải, từ đó xây dựng một sự tự tin chân thật, không dựa trên ảo tưởng nhưng trên sự thật về chính mình. Người có đời sống cầu nguyện biết hành động theo các giá trị Chân – Thiện -Mỹ, biết rèn luyện ý chí, kỷ luật bản thân và biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Đời sống thiêng liêng còn dẫn đến tương quan thiêng liêng. Đây là sự liên hệ với một sức mạnh hay chân lý vượt trên thế giới hữu hình, là sự gắn kết với Thiên Chúa – nguồn mạch của sự sống và tình yêu. Khi đón nhận tương quan này, con người có điểm tựa vững chắc để sống giữa những thay đổi của cuộc đời. Họ tìm thấy hướng đi, ý nghĩa, mục đích và lý tưởng để sống.

Tương quan thiêng liêng không chỉ hướng về Thiên Chúa, mà còn hướng đến tha nhân. Người sống thiêng liêng biết mở lòng yêu thương, bao dung, cảm thông và tôn trọng người khác. Họ nhìn người khác không phải qua lăng kính thành công hay vị thế xã hội, nhưng qua phẩm giá vốn có của mỗi người. Họ yêu “như Chúa yêu”, biết nhìn tha nhân như anh chị em cùng một Cha, biết sống tình liên đới, biết vượt lên cái tôi ích kỷ để sống cho người khác.

Cho đi là một trong những hình thức đẹp nhất của đời sống thiêng liêng. Khi cho đi vì yêu thương, con người vượt qua cái tôi để bước vào đời sống của Thiên Chúa – Đấng là Tình Yêu. Sự cho đi không làm con người nghèo đi, nhưng làm cho trái tim trở nên phong phú và trưởng thành. Người biết cho đi là người đã chạm đến bản chất cao đẹp nhất của đời sống thiêng liêng.

Đời sống thiêng liêng cũng giúp con người đối diện với thử thách một cách trưởng thành. Nhờ có tương quan với Thiên Chúa, con người được nâng đỡ khi gặp đau khổ, thất bại hay mất mát. Những kinh nghiệm ấy không làm họ suy sụp, nhưng trở thành cơ hội để họ lớn lên, hiểu hơn về mình, về người khác và về kế hoạch yêu thương của Chúa trên cuộc đời họ.

Để nuôi dưỡng và phát triển đời sống thiêng liêng, con người cần dành thời gian cho thinh lặng, suy niệm, hồi tâm và cầu nguyện. Đó là thời gian để trở về với chính mình và gặp gỡ Thiên Chúa. Bên cạnh đó, con người cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, bằng sách thiêng liêng, tri thức nhân văn và các giá trị đạo đức. Việc tham gia vào đời sống cộng đoàn – từ gia đình, giáo xứ đến xã hội – cũng là cách giúp con người sống đời thiêng liêng cách thiết thực.

Cuối cùng, đời sống thiêng liêng chính là nền tảng giúp con người phát triển toàn diện. Nó làm cho giá trị bản thân được trưởng thành, làm cho tương quan với tha nhân được lành mạnh và làm cho mối liên hệ với Thiên Chúa trở nên sâu sắc. Khi biết quay về nội tâm, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và sống theo ơn Chúa, con người sẽ tìm thấy sự viên mãn – một đời sống phong phú, ý nghĩa và chan chứa tình yêu.

Hồi tâm:

1/. Trong đời sống hằng ngày, tôi có dành thời gian cho thinh lặng, suy niệm và cầu nguyện để lắng nghe nội tâm và tiếng Chúa, hay tôi đang để mình bị cuốn theo những giá trị phù du của trần gian?

2/. Tôi có nhìn nhận đúng phẩm giá và giá trị bản thân mình như một thụ tạo được Chúa yêu thương và mời gọi sống Chân – Thiện – Mỹ, hay tôi đang để những áp lực, thành công – thất bại bên ngoài định nghĩa con người tôi?

3/. Hiện tại, tương quan thiêng liêng của tôi với Chúa và với tha nhân đang như thế nào? Tôi đã sống yêu thương, bao dung, phục vụ và biết “cho đi không vì lợi ích cá nhân” hay tôi vẫn còn quy về cái tôi và đóng kín lòng mình?

——————

[1] Thánh bộ Giáo sĩ, Huấn thị “Hoán cải mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ mạng truyền giáo của Giáo hội, công bố bố ngày 20/7/2000 tại Roma, số 7.

[2] Nt. Số 1.

[3] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 28.

[4] Nt.

[5] Thánh bộ Giáo sĩ, Huấn thị “Hoán cải mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ mạng truyền giáo của Giáo hội, công bố bố ngày 20/7/2000 tại Roma, số 6.

[6] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II, Tông huấn “Người tín hữu Giáo dân” số 26.

[7] Nt, số 27.

[8] Nt.

[9] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II, Diễn văn trước Tham dự viên Khoáng đại Hội nghị Bộ Giáo sĩ (20/10/1984), số 3 và 4.

[10] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Bài giảng khi thăm viếng mục vụ giáo xứ Our Lady Star of Evangelisation, Rome (10.12.2006): Insegnamenti II/2 (2006), 795.

[11] Thánh Bộ Giáo sĩ, Huấn thị “Cải tổ Mục vụ Cộng đoàn Giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin mừng của Hội thánh”, ban hành ngày 29/6/2020, số 8.

[12] Nt, số 17.

[13] Nt, số 14.

[14] Nt, số 16.

[15] Nt, số 18.

[16] Nt, số 24

[17] Nt, số 25.

[18] Nt, số 38.

[19] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông Huấn “Niềm vui Tin Mừng”, số 28.

[20] Nt, số 26.

[21] Tài liệu làm việc cho Châu Lục, số 28 nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tai-lieu-lam-viec-cho-giai-doan-chau-luc-cua-thuong-hoi-dong-giam-muc-ve-tinh-hiep-hanh-2021-2024-48805

[22] Thánh bộ Giáo sí, Huấn thị “Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ Để Phục Vụ Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng Của Hội Thánh”, ban hành ngày 29-06-2020, so 44.

[23] Nt, số 45

 

Nguồn: WHĐ (03/12/2025)