
Bài đọc 1: 2 V 5,14-17
Ông Na-a-man trở lại gặp người của Thiên Chúa và tuyên xưng Đức Chúa.
Bài trích sách các Vua quyển thứ hai.
14 Thời ấy, ông Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua nước A-ram, mắc bệnh phong hủi. Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.
15 Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói : “Nay tôi biết rằng : trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây.” 16 Ông Ê-li-sa nói : “Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả.” Ông Na-a-man nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. 17 Ông Na-a-man nói : “Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.”
Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.
1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
vì Người đã thực hiện bao kỳ công.
Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh,
nhờ cánh tay chí thánh của Người.
Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.
2Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ,
mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân ;3abNgười đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa
dành cho nhà Ít-ra-en.
Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.
3cdToàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.4Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đ.Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân.
Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Đức Ki-tô.
Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-mô-thê.
8 Anh thân mến, anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít, như tôi vẫn nói trong Tin Mừng tôi loan báo. 9 Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích ! 10 Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su, và được hưởng vinh quang muôn đời.
11 Đây là lời đáng tin cậy :
Nếu ta cùng chết với Người,
ta sẽ cùng sống với Người.
12Nếu ta kiên tâm chịu đựng,
ta sẽ cùng hiển trị với Người.
Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.
13Nếu ta không trung tín,
Người vẫn một lòng trung tín,
vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Anh em hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, đó chính là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. Ha-lê-lui-a.
Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng : “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !” 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ : “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói : “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? 18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” 19 Rồi Người nói với anh ta : “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
(Nguồn: ktcgkpv.org)
—————————
Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, trước hết chúng ta cần phân tích bối cảnh cụ thể của sự kiện, dựa trên Tin mừng Thánh Lu-ca. Lúc này, Đức Giê-su đang cùng các môn đệ tiến về Giê-ru-sa-lem. Con đường từ Bắc xuống Nam phải đi qua Sa-ma-ri-a. Người dân Sa-ma-ri-a có mối thù truyền kiếp với người Do Thái. Người Do Thái cũng không ưa người Sa-ma-ri-a, vì họ cho rằng, sắc tộc này đã lợi dụng thời lưu đày để chiếm đất của họ. Có lần thầy trò đã bị người Sa-ma-ri-a xua đuổi, đến nỗi hai anh em ông Gia-cô-bê và Gio-an đã thưa với Chúa: “Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu hủy chúng không?” (x. Lc 9,51-56).
Và hôm nay, cũng trên cung đường tiến về Giê-ru-sa-lem ấy, mười người phong cùi xin Chúa chữa lành. Họ không dám đến gần vì Luật đã cấm, mà chỉ đứng xa xa van nài xin lớn tiếng. Lu-ca là tác giả duy nhất kể lại câu chuyện này. Hơn nữa, chỉ có ông mới dùng danh xưng “Thầy Giê-su” trong tác phẩm của mình. Danh xưng này được dùng sáu lần ở những bối cảnh sau: Phê-rô trước mẻ lưới lạ (5,5); Các môn đệ trong lúc bão gió (8,24); Phê-rô trên đường đi cùng Thầy đến nhà ông Giai-rô (8,45); Phê-rô trên núi lúc Chúa biến hình (9,33); Gio-an lúc trên núi xuống (9,49 và cuối cùng là lời van xin của mười người cùi (17,13). Đây là một lời kêu cầu với lòng tín thác nơi một bậc Thầy có thế giá, uy tín và quyền năng, đồng thời cũng là lời tuyên xưng đức tin vào một vị Chúa.
Trong Phúc âm, phép lạ Chúa Giê-su làm thì vô số, nhưng vấn đề được nêu ở đây là người trở lại cám ơn sau khi được chữa lành. Chỉ có mỗi người cám ơn, mà đó lại là người Sa-ma-ri-a. Thì ra trong số những người bị coi thường khinh bỉ ấy, vẫn có (những) người tin và bày tỏ lòng biết ơn, trong lúc chín người khác thì lại không. Giáo huấn của Tin Mừng hôm nay được liên kết với Bài đọc I trích sách Các Vua. Ông Na-a-man là một vị tướng quân đội A-ram, tức là người ngoại. Ông bị bệnh cùi, và nghe lời đồn, ông đã đến xin ngôn sứ Ê-li-sa chữa lành. Sau giai đoạn đầu nghi nan, bướng bỉnh và thách thức, ông đã chịu xuống tắm bảy lần ở dòng sông Gio-đan. Ông đã được chữa lành và trở lại gặp vị Ngôn sứ để cám ơn. Không chỉ cám ơn vị Ngôn sứ, Na-a-man đã nhận ra Thiên Chúa, Đấng vị ngôn sứ tôn thờ, qua việc ông được chữa lành.
Hai nhân vật, ông Na-a-man và người Sa-ma-ri-a không chỉ được chữa lành bệnh tật thể lý, mà còn được chữa lành tâm hồn. Hai ông đã tỉnh ngộ. Sau khi được chữa lành, cả hai đều trở lại để bày tỏ lòng biết ơn. Lời nói của ông Na-a-man như một lời tuyên xưng đức tin: “Nay tôi biết rằng: Trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en”. Vâng, Thiên Chúa là Chúa của muôn người. Bất kể họ thuộc nguồn gốc nào, hoặc mang màu da gì, tất cả đều được Ngài tạo dựng và đều là con cái của Ngài. Tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương. Không ai bị loại trừ. Nếu có ai không cảm nhận được hạnh phúc và tình yêu của Thiên Chúa, là vì chính người dó khước từ lời mời gọi yêu thương của Ngài.
Qua câu chuyện này, tác giả Lu-ca (và chính Chúa Giê-su) muốn khẳng định với người Do Thái: Các bạn đừng quan niệm ơn cứu độ là một đặc quyền chỉ dành cho dân tộc các bạn. Thiên Chúa là Cha chung của muôn người. Người Sa-ma-ri-a không phải là đáng khinh, vì nơi họ, cũng có những tấm lòng nhân hậu, trong khi đó có những người Do Thái, thậm chí các tư tế và biệt phái, lại không thực thi giáo huấn của Chúa hoặc không bày tỏ lòng biết ơn Ngài. Những trình thuật khác trong Tin Mừng liên quan đến người Sa-ma-ri-a đều nhằm gửi gắm thông điệp này (vd: Trình thuật người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp (Ga ch. 4); Dụ ngôn người Sa-ma-ri-a nhân hậu (Lc 10,29-37).
Giống như người Sa-ma-ri-a, Ki-tô hữu chúng ta vốn là những “người ngoại” của giao ước và lời hứa (x. Ep 2,12), nhưng chúng ta đã được tái sinh và trở nên con cái Thiên Chúa nhờ được máu Đức Ki-tô thanh tẩy. Đức Giê-su quy tụ muôn người và làm cho trở thành một dân của những người tôn thờ Thiên Chúa “trong tinh thần và Chân lý. Người cùi được chữa lành đã sấp mình dưới chân Chúa Giê-su, như một cử chỉ phụng thờ và tôn vinh Người. Đó cũng là hành vi thờ phượng của hai mươi bốn vị kỳ lão mà Thánh Gio-an tông đồ đã thấy trong thị kiến (x. Kh 4,10; 5,8).
Ki-tô hữu là người được nâng đỡ nhờ niềm xác tín nơi Đức Ki-tô, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Cảm nhận rõ sức mạnh của ân sủng Chúa ban, Thánh Phao-lô khuyên môn sinh của mình là Ti-mô-thê: Hãy luôn tin cậy vào Đấng chịu đóng đinh; hãy trung thành với Chúa, vì Người là Đấng trung thành, kể cả khi con người phản bội (Bài đọc II)
“Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!”. Đó cũng là lời kêu cầu của mỗi tín hữu chúng ta, khi cầu nguyện hoặc gặp gian nan khốn khó. Đây vừa là lời tuyên xưng đức tin, vừa là tâm tình tín thác cậy trông nơi quyền năng của Thiên Chúa. Lời kêu cầu ấy đã mang lại cho những người cùi ơn chữa lành. Trên đường đời, mỗi chúng ta đang phải gánh chịu biết bao thương tổn tinh thần và thể xác. Xin Chúa ban cho chúng ta ơn chữa lành, đồng thời giúp chúng ta nhận ra tình thương của Người. A-men.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
—————————
Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh
TẠ ƠN VÀ CA TỤNG THIÊN CHÚA
Thiên Chúa chữ lành là tâm điểm của phụng vụ hôm nay qua Bài đọc 1 (2V 5,14-17) và bài Tin Mừng (Lc 17, 11-19) cả hai bài đều nói đến việc Thiên Chúa chữa lành người phong cùi. Tiên tri Êlisa chữa lành cho tướng quân Naaman, vị tướng chỉ huy quân đội của vua Aram, xứ Xyria, khi “ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Giođan, theo lời tiên tri Êlisa”. Còn Đức Giêsu chữa nhóm mười người phong cùi trong dân Ítraen bằng cách sai họ “Hãy đi trình diện với các tư tế”.
Trong cả hai bài trình thuật, các người phong cùi đều được chữa lành và những người đến tạ ơn Chúa đều là những người ngoại quốc: Naaman người Xyria và người Samari ngoại giáo. Rõ ràng phụng vụ muốn đề cao lòng biết ơn nơi dân ngoại, cũng như tính hoàn vũ của ân huệ Thiên Chúa ban cho những kẻ tin vào Người. Thiên Chúa là Đấng cứu độ nhân loại, Người không thiên vị ai, Người hành xử theo ý muốn của Người. Người xử tốt với mọi người. Tất cả ân huệ đều là nhưng-không từ Thiên Chúa ban xuống.
Vào thời tiên tri Êlisa, quan hệ xã hội giữa Ítraen và Xyria vốn căng thẳng: Naaman là dân ngoại bị coi như là kẻ thù của Ítraen. Tương tự như thế quan hệ giữa người Samari và người Do thái, Người Do thái khinh miệt người Samari, coi tôn giáo của Samari là không tinh tuyền, theo đa thần giáo. Hai bên tẩy chay nhau. Vào thời đó ai mắc bệnh phong thì bị luật pháp khai trừ khỏi xã hội lành mạnh, người mắc bệnh phong bị coi là hạng ô uế, chịu sự trừng phạt của Thiên Chúa. Họ sống biệt lập tách rời xã hội người khỏe mạnh, làm nên một nhóm nhỏ bị bỏ rơi và bị tẩy chay.
Dân Samari ở miền Trung Ítraen, họ lập đền thờ riêng tại núi Garisim và sinh hoạt tôn giáo tại đó, họ không cần lên đền thờ Giêrusalem để chu toàn các lễ nghi tôn giáo, vì vậy cho nên người Samari khi được chữa lành ông đã không bị ràng buộc phải lên đền thờ tạ ơn Thiên Chúa. Cho nên ông diễn tả tình cảm tôn giáo theo cách thức riêng của mình, bằng “phục lạy dưới chân Đức Giêsu” khi gặp được Người. Qua việc làm nầy ông công bố cho mọi người biết công trình của Thiên Chúa đã thực hiện nơi ông. Tính bộc phát đó cho thấy người ngoại nầy sống gần với tôn giáo chân thật: cảm kích trước phép lạ và ơn lành mà ông đã lãnh nhận một cách nhưng không, ông liền trở lại tạ ơn Thiên Chúa. Ông ta hoàn toàn tự do nội tâm khi hành động như thế. Và sự tự do nầy đề cao giá trị việc ông tự nguyện phục lạy Đức Giêsu. Phục lạy là tôn sùng, là thờ phượng, đó là cử chỉ mang tính tôn giáo. Tự do càng cao, việc thờ lạy Thiên Chúa càng có giá trị tâm linh.
Còn ông quan xứ Xyria, khi đứng trước thái độ vô vị lợi của tiên tri Êlia nhất quyết không nhận bất cứ quà tặng nào của quan trao ban, quan chức nầy càng ý thức ân huệ cao quý và nhưng-không của Thiên Chúa cũng như tính vô vị lợi của vị Thần đã cứu chữa ông. Ông tâm phục khẩu phục nhà tiên tri và Thiên Chúa của nhà tiên tri. Ông đã muốn trở thành môn đệ của Thiên Chúa, muốn trở thành huynh đệ của nhà tiên tri, để tỏ quyết tâm dứt khoát đó, ông xin một bao đất nơi nhà tiên tri đang ở để chở về quê hương. Bao đất đó được coi như ‘quê hương’ của vị thổ thần nơi phép lạ xảy ra.
Mang một bao đất xứ lạ về quê hương mình ông muốn diễn tả lòng tôn thờ vị thần ngự trị trên đất nầy đã cứu chữa ông, người ta thường quan niệm “đất thì có thổ công, sông thì có hà bá” là những vị thổ thần và thủy thần nơi đó. Ông quý trọng bao đất thiêng như muốn chọn nơi đó làm quê hương, đặt mình trong mối tương quan thiện hảo với Thổ Thần là Thiên Chúa, và liên kết với những ai sống trên đất nầy.
Cả hai con bệnh phong cùi ngoại giáo đều được chữa lành do lòng tin của họ. “Đứng dậy mà về đi! Lòng tin của con đã cứu chữa con”. Suy cho cùng không phải nước sông Giođan xứ Ítraen tốt hơn nước sông xứ Xyria có sức làm phong cùi được lành sạch, nhưng chính là lòng tin vào Thiên Chúa, Người làm cho da thịt nên như da thịt của trẻ thơ. Việc tắm trong sông Giođan không có tác dụng ma thuật, nhưng là do “Lòng tin của con đã cứu chữa con” . Việc nầy nhắc nhớ đến dòng nước thánh tẩy làm cho tội nhân được trở nên tạo vật mới do lòng tin và do tác động của Chúa Thánh Thần, chứ không phải do sức mạnh ma thuật của nước.
Dấu chỉ tự nhiên của tạo vật và hiệu năng siêu nhiên của các bí tích luôn được tìm thấy khi cử hành các bí tích. Dấu chỉ của nước chỉ sự rửa sạch trong bí tích thánh tẩy, lời xá giải nơi tòa giải tội tuyên bố sự tha thứ và ơn bình an. Dấu chỉ bề ngoài sinh hiệu năng bên trong luôn được đọc thấy nơi các bí tích. Suy xa hơn nữa, Hội thánh được coi là bí tích mang đến ơn cứu độ và Hội thánh thi hành ơn cứu chuộc qua các dấu chỉ bí tích được cử hành.
Lạy Chúa Giêsu, bệnh phong cho đến nay vẫn là bệnh hiểm nghèo, con người phải cách ly người thân của mình để chữa trị, tội lỗi được ví như phong cùi, làm con người xa lánh cộng đoàn của mình. Xin cho con biết chạy đến với Chúa và nói : “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi” như mười người phong xưa đã kêu lên với Chúa. Amen
(Lm. Lu-y Nguyễn Quang Vinh, Giáo xứ Đức An, Pleiku)
____________________________
Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên
LÒNG BIẾT ƠN
1. Lòng biết ơn – nét đẹp cao cả của con người
Bài đọc thứ nhất (2V 5, 14–17) kể lại một hình ảnh cảm động: Tướng Naaman người Syria bị phong hủi, sau khi được ngôn sứ Êlisa chữa lành, đã trở lại tạ ơn. Ông dâng quà biếu Êlisa, nhưng ngôn sứ cương quyết từ chối – vì lòng biết ơn của Naaman đã là món quà đẹp nhất rồi.
Naaman được lành bệnh, nhưng điều quý giá hơn là tâm hồn ông được đổi mới: ông nhận ra rằng không có Thiên Chúa nào ngoài Thiên Chúa của Israel. Lòng biết ơn ấy làm ông trở thành người được cứu độ, chứ không chỉ là kẻ được chữa lành. Từ hình ảnh đó, Tin Mừng hôm nay dẫn ta đến câu chuyện mười người phong được Đức Giêsu chữa lành.
2. Mười người phong – mười khuôn mặt của nhân loại
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu gặp mười người phong hủi đứng từ xa kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con!” Người chỉ đáp: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Và trên đường đi, họ được lành sạch. Thế nhưng, chỉ một người quay lại để tạ ơn, và người ấy lại là một người Samari – dân ngoại bị khinh bỉ. Chín người kia vui mừng với ân ban, nhưng quên Đấng ban ân. Đức Giêsu thốt lên trong nỗi ngậm ngùi: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Còn chín người kia đâu?” Câu hỏi của Chúa không chỉ dành cho họ, mà cũng là lời chất vấn từng người chúng ta hôm nay.
3. Biết ơn – cánh cửa dẫn vào ơn cứu độ
Đức Giêsu không làm ơn để được người ta biết ơn, nhưng lòng biết ơn là con đường để con người gặp lại Thiên Chúa. Người Samari duy nhất trở lại đã được chữa lành một lần nữa trong tâm hồn. Anh đã không chỉ nhận được ơn khỏi bệnh, mà còn được ơn cứu độ, khi Chúa nói: “Đức tin của anh đã cứu anh.” Đó là điều mà Kinh Tiền Tụng IV đã nói lên:“Chúa không cần chúng ta ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng ta ơn cứu độ muôn đời”.
4. Vô ơn – căn bệnh âm thầm của thời đại
Câu chuyện chín người không trở lại là tấm gương phản chiếu xã hội hôm nay: con cái quên ơn cha mẹ; học trò quên ơn thầy cô; người ta quên ơn nhau, và bi kịch nhất – con người quên ơn Thiên Chúa.
Ta dễ cầu xin khi gặp gian nan, nhưng lại quên tạ ơn khi được bình an. “Chúng ta dễ nhớ những điều làm ta tổn thương, nhưng lại quên mau những ơn lành ta đã nhận.” (Gioan Kim Khẩu). Sống vô ơn là một cuộc đời trống vắng tình yêu. Người vô ơn không chỉ mất đi lòng nhân nghĩa, mà còn đánh mất chính mình trước Thiên Chúa.
5. Lòng biết ơn – ký ức của trái tim
Ngạn ngữ Pháp nói: “Lòng biết ơn là ký ức của trái tim.” Ký ức ấy giúp con người không quên nguồn cội, biết cúi đầu khiêm tốn, và nhận ra mọi sự trong đời là hồng ân nhưng không. Cuộc sống là một chuỗi ân huệ nối tiếp nhau. Từ hơi thở, giọt nước, đến tình yêu, tình bạn, niềm tin – tất cả đều là quà tặng. Chúng ta không thể sống mà không nhờ đến tình yêu của bao người khác.
Nếu cuộc sống là lãnh nhận, thì lòng biết ơn là cách sống đẹp nhất của con người. Người biết ơn là người có chiều sâu nội tâm, biết nhìn thấy hồng ân trong mọi biến cố, và biến lời “cám ơn” thành bông hoa rực rỡ điểm tô cho cuộc sống nhân loại.
6. Đức Giêsu – bài ca tạ ơn của nhân loại
Khi nhìn ngắm Đức Giêsu, ta nhận ra toàn bộ cuộc đời Ngài là một bản trường ca tạ ơn. Ngài tạ ơn Cha khi thấy các môn đệ nhỏ bé hiểu được mầu nhiệm Nước Trời (x. Mt 11,25). Ngài tạ ơn Cha trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Ngài tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại. Và đặc biệt, Ngài tạ ơn Cha trong Bữa Tiệc Ly, khi cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ. Từ đó, mỗi Thánh lễ trở thành lễ Tạ ơn – Eucharistia, nơi con người hiệp thông với Chúa trong niềm tri ân.
7. Mỗi Kitô hữu – bài ca tạ ơn sống động
Người Kitô hữu là người biết sống tạ ơn trong mọi hoàn cảnh: tạ ơn khi được chúc phúc, và cả khi phải đi trong đêm tối. Tạ ơn không chỉ là cách nói, mà là một cách sống. Đời mỗi người là quà tặng của Thiên Chúa, và đẹp biết bao khi ta biến mình thành quà tặng cho tha nhân.” Lòng biết ơn làm cho con người biết trân trọng từng giây phút, biết mỉm cười với thử thách, và biết yêu thương như một cách tạ ơn.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Đời sống con là ân ban của Chúa,
là một chuỗi ân huệ nối tiếp nhau,
để làm cho cuộc sống được tươi mầu,
Con tạ ơn Chúa vì thành công và may mắn,
cả những thất bại và cay đắng trong đời.
Con tạ ơn Chúa vì niềm vui và hạnh phúc,
cả nỗi buồn đau và những lúc khổ sầu.
Con tạ ơn Chúa những gì được cũng như mất,
những gì đã hoàn tất cũng như đang dang dở.
Con tạ ơn Chúa vì có những người quí mến,
và cả những người đã ghét bỏ khinh chê.
Con tạ ơn Chúa khi mạnh khỏe và sung túc,
cũng như lúc bệnh tật và tai ương hoạn nạn.
Con tạ ơn Chúa những ngày sống bình an,
cả những ngày tháng đầy hoang mang lo sợ.
Con tạ ơn Chúa vì những đỡ nâng và an ủi,
cả những lúc bị dập vùi và lủi thủi cô đơn.
Con tạ ơn Chúa vì có khả năng để phục vụ,
cả những yếu kém và nhiều điều chưa đủ.
Con tạ ơn Chúa về tất cả,
chẳng loại trừ ra một điều gì,
vì đã góp phần làm nên cuộc sống con.
Con có chết cũng tạ ơn không hết,
vì đời con đầy dấu vết của tội nhơ,
mà tình Chúa thương vẫn vô bến vô bờ.
Con tận dụng những ngày giờ còn lại,
sống hết mình cho Chúa cho tha nhân,
để tri ân tình Chúa đến muôn đời. Amen.
Lm. Thái Nguyên
____________________________
Suy niệm 4: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ
(Lm Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ – Giáo xứ Hoa Lư, Pleiku)
WGPKT(10/10/2025) KONTUM