Ngày 01/11: Thánh Jeronimo Hermosilla Vọng (Liêm), GM – Thánh Valentino Berrio Ochoa (Vinh), GM – Thánh Pedro Almato (Bình), LM – Tử Đạo

1. Thánh JERONIMO HERMOSILLA – VỌNG (LIÊM)

Giám mục dòng Đa Minh (1800 – 1861)

Ngày tử đạo: 01 tháng 11 năm 1861

Nếu được chết vì đạo này, đối với tôi là một hạnh phúc.

Thánh Jeronimo Hermosilla – Vọng (Liêm) chào đời ngày 30-12-1800 tại Tây Ban Nha trong một gia đình nghèo và đạo đức. Cậu Jeronimo vào chủng viện do dòng Đa Minh điều hành.

Năm 19 tuổi, cậu Jeronimo lãnh tu phục trong Tu viện Thánh Đa Minh thành Valenza. Ngày 29-10-1823, thầy Jeronimo tuyên khấn vĩnh viễn và lãnh chức phó tế.

Thầy tình nguyện đi truyền giáo miền Viễn Đông. Ngày 02-3-1825, thầy và 11 tu sĩ Đa Minh, xuống tàu đi Manila, Philippines. Thầy thụ phong linh mục năm 1826 và làm giám đốc hội Mân Côi tại Manila.

Ngày 23-10-1828, ngài được bề trên gửi đến truyền giáo tại Việt Nam và ngày 15-5-1829, cha đến Thái Bình, thuộc Giáo phận Đông Đàng Ngoài.

Trong hai năm 1830 – 1832, vua Minh Mạng tăng cường bách hại đạo. Giáo phận rộng lớn với số giáo dân đông đảo nhưng chỉ còn lại ba giáo sĩ đã già yếu. Đức cha Delgado – Y và Đức cha Henares – Minh đặt tên cho cha trẻ Hermosilla là Vọng vì cha chính là thế hệ trẻ nối ba vị già yếu. Ngày 25-3-1841, cha được tấn phong giám mục thay thế Đức cha Delgado – Y và Đức cha Henares – Minh vừa được tử đạo. Trong bảy năm đời vua Thiệu Trị tình hình tương đối bình yên.

Đức cha Hermosilla – Vọng tu sửa các nhà thờ, nhà nguyện bị tàn phá, mở trường dạy kinh bổn, giáo lý, mua sắm đồ phụng tự… Ưu tiên hàng đầu của ngài là mở các tuần đại phúc cho các xứ đạo, đi tìm những con chiên lạc (số giáo dân đã đạp ảnh, bỏ đạo), khích lệ lần hạt Mân Côi. Ngài tái lập chủng viện, tu viện, tập hợp các nữ tu đã bị phân tán và truyền chức cho 7 tân linh mục.

Thời vua Tự Đức, việc bách hại trở nên khốc liệt. Đức cha Hermosilla – Vọng hai lần đổi tên thành Liêm hay Tuấn để tránh quan quân. Khi Đức cha và thầy giảng Nguyễn Duy Khang đang ẩn náu trong gia đình ông Bính, một gia đình không Công giáo, thì chẳng may, giữa hai cha con gia đình này có sự bất hòa. Đứa con đi tố cáo quan trên là trong nhà có chứa tây dương đạo trưởng. Đức cha và thầy Khang bị bắt ngày 21-10-1861 và bị giải về Hải Dương.

Trước quan quân, Đức cha Hermosilla – Vọng minh nhiên khẳng định: “Đạo Thiên Chúa là đạo chân chính, dạy con người biết tôn thờ vị Thượng Đế tạo thành trời đất và yêu thương đồng loại, để khi chết được lên Thiên Đàng hưởng phúc trường sinh, chứ không phải là một tà đạo. Nếu được chết vì đạo này, đối với tôi là một hạnh phúc”.

Đức cha lãnh án xử trảm ngày 01-11-1861 tại pháp trường Năm Mẫu, ngoại thành Hải Dương. Thi hài của ngài được ông tổng Oánh, người không Công giáo nhưng có cảm tình với Đức cha, đưa về an táng tại xứ Thọ Ninh, sau rước về tôn kính trong nhà nguyện Dòng Mến Thánh Giá Kẻ Mốt.

Ðức giám mục Hermosilla – Vọng được nâng lên bậc chân phước ngày 20-5-1906 và được tôn phong hiển thánh ngày 19-6-1988.

Thánh

VALENTINÔ BERRIO OCHOA – VINH

Giám mục dòng Đa Minh (1827 – 1861)

Ngày tử đạo: 01 tháng 11 năm 1861

Tôi đi để quê tôi có người làm thánh.

Thánh Valentino Berrio Ochoa sinh ngày 14-02-1827 trong một gia đình đạo đức nhưng nghèo, tại làng Elorrico, giáo phận Vich, Tây Ban Nha. Năm 18 tuổi, Valentino vào chủng viện Logrono, sau đó xin bề trên về quê giúp cha mẹ già yếu. Năm 1851, thầy Valentino lần lượt được lãnh chức năm, chức sáu và linh mục.

Hai năm tận tụy với sứ vụ linh hướng chủng viện, cha Valentino vẫn ôm ấp giấc mộng truyền giáo, nên xin vào dòng Đa Minh. Lúc giã từ, có người hỏi: “Cha đi đâu và bao giờ trở lại ?” Cha đáp: “Tôi đi để quê tôi có người làm Thánh”.

Khấn dòng năm 1854, cha Valentino đến Manila tháng 6 năm 1857 và vào đất Việt ngày 30-3-1858, giữa lúc cơn bách hại căng thẳng. Trong thư gửi cho gia đình, cha Valentino – Vinh ghi nhận: “Cánh đồng truyền giáo này không thấy lấy một ngày quang đãng; không ngày nào không phải cố gắng giữ nét vui tươi; không ngày nào không có đau thương để khóc; không có lo toan để tìm phương bổ cứu; không có kẻ lạ mặt theo dõi hay quan quân truy lùng”.

Trước nguy cơ tử đạo, Đức cha Sampedro – Xuyên phụ trách địa phận Trung, dùng đặc quyền để chọn cha Vinh làm giám mục phó. Lễ tấn phong giám mục được tiến hành tại nhà ông trùm Chi ở Ninh Cường rạng sáng ngày 26-6-1858. Tất cả diễn ra âm thầm giữa đêm thâu, không ca đoàn, không giáo dân, mũ giám mục làm bằng giấy bìa cứng phủ giấy tráng kim, gậy là cây nứa, đầu cuốn rơm cũng bọc giấy tráng kim. Chính vì thế ngài có biệt danh là giám mục gậy tre mũ giấy.

Ngài cũng tự nhận là giám mục sinh non, vì chưa đầy ba tháng trên đất Việt, và mới 31 tuổi đời đã phải chăm sóc một giáo đoàn trên 150 ngàn giáo hữu giữa cuồng phong bách hại.

Chẳng bao lâu, Đức cha Xuyên bị bắt ở Kiên Lao và bị xử lăng trì ngày 28-7-1858. Đức cha Vinh phải lánh nạn tại nhiều nơi, trước khi đến ẩn náu lâu dài trong hầm trú tại vườn nhà anh Thăng, làng Hương La, xứ Tử Nê (Bắc Ninh). Đó là tòa giám mục của vị giám mục hầm trú.

Hỗ trợ Đức cha liên lạc và sao chép thư từ, có bốn chủng sinh và ông lang Thư, người Cao Xá. Thật đáng khâm phục, nơi hầm trú Đức cha vẫn chuẩn bị cho tương lai, dạy thần học cho chủng sinh, viết thư xin gởi đến bộ Giáo Luật, và các sách thần học của thánh Tôma.

Lần duy nhất người ta thấy Đức cha Vinh xuất hiện ở Kẻ Mèn (nay là xứ Trung Đồng và Đại Đồng). Cùng với cha Riaño – Hòa, hai vị xin Đức Mẹ Vô Nhiễm làm bổn mạng giáo phận và tuyên hứa xây một thánh đường dâng kính Đức Mẹ. Sau này, khi cha Riaño-Hòa làm giám mục sẽ thực hiện lời tuyên thệ này: đó là vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm – Phú Nhai.

Trong mọi tình huống, Đức cha Vinh vẫn biểu lộ sự lạc quan phó thác, như ta thấy trong lá thư ngài gửi cho thân mẫu tháng 8 năm 1860: “Ở đây người ta sống mạnh, sống tươi, nhanh nhẹn lắm. Chúa an ủi chúng con trong lao nhọc. Con tuy là “trai già” mà nhảy qua vũng lội vẫn lẹ như sóc ấy. Mẹ ạ, Vinh trước đã là đứa con nhảy nhót qua núi đồi thì nay bộ mặt đầy râu của nó, cũng sẽ làm những tên quỷ già nhất ở trong hỏa ngục phải run sợ…”.

Tháng 8 năm 1861, chiếu chỉ Phân sáp của vua Tự Đức như một cơn hồng thủy lan tràn khắp cả nước. Đức cha Vinh mô tả hoàn cảnh bấy giờ: “Rất có thể trong ít tháng nữa, giáo phận của tôi chẳng còn thừa sai, chẳng còn linh mục, không chủng sinh, không thầy giảng và không biết còn nên nói thêm chăng, không còn bổn đạo”.

Trong hoàn cảnh đó, Đức cha Vinh và cha Almato – Bình phải xuống thuyền xuôi dòng sang Hải Dương. Tín hữu giới thiệu hai vị trọ nhà một phó lý ngoại giáo. Không ngờ cháu ông này đi báo quan, khiến hai vị bị bắt ngày 25 tháng 10 và bị đóng cũi giải đi. Tại Hải Dương, hai vị gặp Đức cha Liêm trong một cũi khác, đã bị bắt trước đó năm ngày.

Ngày 01-11-1861, ba vị thừa sai cùng bị đem đi xử. Cũi Đức cha Vinh đi giữa, ngài bình tĩnh cầu nguyện với nét mặt tươi tỉnh khiến mọi người ngạc nhiên. Đến pháp trường Năm Mẫu, sau ít phút cầu nguyện, lý hình án xử trảm ba chứng nhân theo hiệu lệnh. Thi thể ba vị thánh tử đạo Hải Dương được chôn tại chỗ, sau được cải táng về Thọ Ninh rồi Kẻ Mốt. Đến đời Đức cha Hiển, thi thể Đức cha Vinh được gởi về Macao, và sau cùng được đem về quê hương của ngài.

Ðức Giám mục Valentino Berrio Ochoa – Vinh được suy tôn lên bậc chân phước ngày 20-5-1906 và được tôn vinh hiển thánh ngày 19-6-1988.

Thánh

PEDRO ALMATO – BÌNH

Linh mục dòng Đa Minh (1830 – 1861)

Ngày tử đạo: 01 tháng 11

Nếu cha mẹ có hay tin con bị bắt thì xin cha mẹ đừng khóc nhưng hãy vui mừng vì con được diễm phúc.

Thánh Almato – Bình sinh ngày 01-11-1830 tại Tây Ban Nha. Thời niên thiếu, Almato say mê đọc tạp chí “Kỷ Yếu Hội Truyền Bá Đức Tin” và học hỏi về đời sống chứng nhân của các vị thừa sai. Cậu có vóc dáng mảnh khảnh, ốm yếu, nên thường bị đánh giá là không đủ điều kiện để thực thi các hoạt động truyền giáo tại các nước xa xôi. Nhưng rồi vào năm 1847, Almato cũng đã được nhận vào dòng Đa Minh, được khấn trọn ngày 26-9-1848 và chịu chức linh mục tại Philippines năm 1853.

Năm 1855 cha Almato đến truyền giáo tại Bùi Chu và phụ trách mục vụ hạt Thiết Nham. Cha học tiếng Việt và lấy tên Việt là Bình. Cha Bình rất hăng say hoạt động tông đồ. Tuy nhiên, khi thấy cha có sức khỏe yếu, lại phải sống trong hầm sâu, đất lạnh, Đức cha quyết định chuyển cha sang truyền giáo tại Trung Hoa.

Cha rất đau lòng nhưng cũng cúi đầu vâng phục. Nhưng khi cha đến điểm hẹn để lên thuyền đi Trung Hoa thì thuyền đã nhổ neo trước đó vì sợ hành tung bị bại lộ. Lỡ chuyến tàu, cha ở lại phục vụ các giáo xứ vùng Hải Dương. Trong thư gửi về gia đình, cha kể mình đã ở trong hang dưới lòng đất bảy tám tháng liền để tránh quan quân tìm bắt. Cha viết: “Nếu cha mẹ có hay tin con bị bắt, thì xin cha mẹ đừng khóc, nhưng hãy vui mừng vì con được diễm phúc”.

Đầu tháng 8 năm 1861, khi đang lẩn trốn trong ruộng mía để chờ Đức cha Valentinô Ochoa – Vinh, cha đã bị một người từng niềm nở đón tiếp các vị thừa sai, mật báo với quan trên để lãnh tiền thưởng. Đức cha Vinh và cha Bình đã bị bắt và bị đóng gông giải về Hải Dương.

Khi không tra hỏi được gì, lại sợ ảnh hưởng của các nhà thừa sai trên lính gác và các tù nhân khác, các quan đồng lòng đệ án gửi về kinh đô Huế xin trảm quyết các nhà thừa sai. Cha Almato – Bình bị xử trảm ngày 01-11-1861 tại pháp trường Năm Mẫu, thời vua Tự Đức. Thi hài của cha được mai táng ngay tại pháp trường, sau được cải táng và rước về Thánh đường Đức Mẹ Truyền Tin, dòng nữ Đa Minh.

Linh mục Pedro Almato – Bình được nâng lên hàng chân phước ngày 20-5-1906 và được tôn phong hiển thánh  ngày 19-6-1988.

Trích sách “Hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Biên soạn: Hội đồng Giám mục Việt Nam
WH