
Này đây người trinh nữ sẽ mang thai.
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
10 Khi ấy, Đức Chúa sai ngôn sứ I-sai-a nói với vua A-khát rằng :
11“Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi
ban cho ngươi một dấu
dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.”
12Vua A-khát trả lời :
“Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.”
13Ông I-sai-a bèn nói : “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít,
các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao,
mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa ?
14Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu :
Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai,
và đặt tên là Em-ma-nu-en.”
Đ.Chúa sẽ ngự vào : chính Người là Đức Vua vinh hiển.
1Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài,
làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư.2Nền trái đất, Người dựng trên biển cả,
đặt vững vàng trên làn nước mênh mông.
Đ.Chúa sẽ ngự vào : chính Người là Đức Vua vinh hiển.
3Ai được lên núi Chúa ?
Ai được ở trong đền thánh của Người ?4abĐó là kẻ tay sạch lòng thanh,
chẳng mê theo ngẫu tượng.
Đ.Chúa sẽ ngự vào : chính Người là Đức Vua vinh hiển.
5Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành,
được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.6Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người,
tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.
Đ.Chúa sẽ ngự vào : chính Người là Đức Vua vinh hiển.
Xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít, Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa.
Khởi đầu thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
1 Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su ; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. 2 Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. 3 Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Xét như một người phàm, Đức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít. 4 Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.
5 Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. 6 Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô.
7 Kính gửi tất cả anh em ở Rô-ma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh.
Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Ha-lê-lui-a.
Đức Giê-su sinh làm con bà Ma-ri-a. Bà đã thành hôn với ông Giu-se, con cháu vua Đa-vít.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. 19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. 20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” 22 Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ : 23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.
(Nguồn: ktcgkpv.org)
—————————
Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Thánh Mát-thêu đã mở đầu tác phẩm của mình bằng việc kể lại giấc mơ của ông Giu-se. Trong giấc mơ này, sứ thần Chúa đã hiện ra, trấn an ông, và khẳng định rằng: “người Con mà bà (Ma-ri-a) cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần”. Sứ thần cũng trích dẫn ngôn sứ I-sai-a bảy thế kỷ trước đó, để chứng minh, hài nhi sẽ sinh ra là Đấng Em-ma-nu-en, tức là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Nếu thánh Mát-thêu đã khởi đầu tác phẩm bằng việc giới thiệu Đấng Em-ma-nu-en, thì ông lại kết thúc tác phẩm của mình cũng bằng ý tưởng ấy. Đó là lời Chúa Giê-su nói với các môn đệ: “Này đây Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Tuyên bố này so với lời tiên báo của ngôn sứ I-sai-a, tuy có khác về cách diễn đạt, nhưng lại có cùng một nội dung. Đây cũng là câu cuối cùng của Tin Mừng, qua đó, tác giả muốn nói: Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta.
Thiên Chúa ở với con người. Đó khẳng định của Ki-tô giáo trải qua mọi thời đại. Đó cũng là cốt lõi giáo lý mà Giáo Hội không ngừng dạy chúng ta. Thánh Gio-an đã khẳng định: “Ngôi Lời đã làm người và ở cùng chúng ta”. Thiên Chúa làm người! Đó là một huyền nhiệm mà lý trí con người không thể suy thấu. Trong kho tàng cổ tích dân gian của Việt Nam cũng như nhiều nền văn hóa khác, vẫn có những huyền thoại kể về việc các vị thần linh giả làm người thế, có lúc để giúp dân, nhưng cũng có khi làm hại dân lành.
Mầu nhiệm Nhập Thể không phải là một câu chuyện huyền thoại. Chúng ta chỉ có thể nhìn nhận bằng đức tin và con tim yêu mến. Đức tin giúp ta nhận ra quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là Đấng có thể làm được mọi sự. Trinh nữ Ma-ri-a thành Na-da-rét, khi nghe sứ thần nói mình sẽ sinh hạ một con trai, cũng hết sức ngỡ ngàng. Trinh nữ đã hỏi sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Câu trả lời của sứ thần đã giải tỏa nỗi lo của Trinh nữ: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không làm được”. Mầu nhiệm Nhập Thể có thể được đón nhận bằng trái tim yêu mến, khi chúng ta nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người, và việc Ngôi Hai xuống thế làm người là bằng chứng hùng hồn cho tình thương bao la ấy. Một tác giả đã viết, đại ý: Mầu nhiệm Nhập Thể là việc làm tốt nhất của Thiên Chúa, trong số những việc Ngài có thể làm, để thể hiện tình yêu thương đối với con người. Đương nhiên, đó là cách lập luận của con người, còn đối với Thiên Chúa, không bao giờ có khái niệm “có thể”.
Nếu Thiên Chúa luôn hiện diện giữa chúng ta, thì nhiều Ki-tô hữu vẫn chưa cảm nhận được sự hiện diện yêu thương ấy. Thái độ của vua A-khát trong Bài đọc I cho chúng ta thấy sự dửng dưng của ông. Mặc dù vị ngôn sứ đã tiên báo rõ ràng một việc sẽ xảy đến để chứng minh quyền năng Thiên Chúa, nhưng vua vẫn cứng lòng. Trong lịch sử các vua của Ít-ra-en, A-khát được trình bày như một vị vua nhu nhược, tìm cách thỏa hiệp với ngoại bang khi có biến về chính trị. Ông đã khước từ sự trợ giúp của Thiên Chúa, và từ chối với những lời đạo đức giả: “Tôi không dám thử thách Thiên Chúa” như một lời ngụy biện.
Tâm trạng của vua A-khát cũng là tâm trạng của nhiều Ki-tô hữu chúng ta hôm nay. Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta, nhưng ít khi chúng ta ý thức về sự hiện diện ấy. Vì thiếu hiểu biết giáo lý, nhiều tín hữu coi Chúa Giê-su như một nhân vật của quá khứ xa xôi, không có liên hệ gì với cuộc đời mình. Đức tin vào sự hiện diện của Đức Ki-tô, Đấng đang sống giữa chúng ta, phải là động lực chi phối và thúc đầy mọi hành và suy nghĩ của người tín hữu.
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Những tín hiệu của ngày Đại lễ đã xuất hiện: những đèn sao rực rỡ, những điệu nhạc du dương… tất cả đều muốn nói với chúng ta một chân lý quan trọng: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Rô-ma nhận ra Đức Ki-tô không chỉ như một người phàm xuất thân từ dòng dõi Đa-vít, mà còn là Đấng đã chết và sống lại nhờ Thánh Thần. Đời sống Ki-tô hữu được đặt nền trên mầu nhiệm Nhập Thể và Phục sinh của Đức Giê-su, từ đó chúng ta cảm nhận sâu sắc sự hiện diện của Người trong cuộc sống thường ngày.
Chúa Nhật thứ bốn của Mùa Vọng cũng được gọi là Chúa Nhật của Đức Trinh nữ Ma-ri-a. Những lời các ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa đã thực hiện nơi Đức Trinh nữ thành Na-da-rét. Lời một thánh thi đã ca ngợi: “Mẹ sinh Chúa thiên đình, Đấng tạo thành nên Mẹ, trước sau vẫn khiết trinh, ôi lạ lùng khôn ví”.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta ! Đó là khẳng định của Tin Mừng. Đó cũng là khẳng định của Giáo Hội trải qua mọi thời. Đó cũng là Đức tin của chúng ta.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
(Nguồn: tonggiaophanhanoi.org)
—————————
Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh

ĐẤNG EM-MA-NU-EN
“Em-ma-nu-en” có nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, danh xưng vắn gọn nầy, cô đọng lại mặc khải táo bạo nhất, hiện thực nhất, và cũng là phong phú nhất trong toàn bộ Kinh thánh Cựu ước. Danh xưng diễn tả đức tin sâu xa và đầy xác tín nơi tiên tri I-sa-i-a rằng Thiên Chúa ở với chúng ta và Người không bao giờ bỏ rơi dân của Người. Cũng chính I-sa-i-a quả quyết khi so sánh tình yêu của bà mẹ đối với con mình và tình yêu của Thiên Chúa đối với Dân của Người: “Người mẹ có thể quên con của mình sao, còn Ta, Ta không bao giờ quên ngươi”, ‘ngươi’ ở đây được hiểu về Dân Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ quên bạn khi đã tạo dựng nên bạn, hoàn toàn khác với nhà sản xuất xe hơi, một khi xuất xưởng, không biết xe đó đi vào phương trời nào.
Lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en được tuyên ra vào một thời điểm cố định trong lịch sử Do thái thời vua A-khát, tuy nhiên nội dung của lời sấm vượt quá khung cảnh lịch sử, mang tính tiên tri hướng về tương lai. Lời sấm được phán ra từ thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, được vận hành tới thềm kỷ nguyên Thiên Chúa giáng sinh, trung tâm của Tân ước. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” gói trọn tất cả Tin mừng từ hang đá Bê-lem đến thập gía trên đồi Can-vê và cả đến biến cố phục sinh. Đó là sự đồng hành của Thiên Chúa đi chung đường với nhân loại để cứu độ họ.
Bối cảnh lời sấm được phán ra, lúc bấy giờ, vua A-khát đang trị vì nước Giu-đa, bị hai vua khác tiến đánh, vua lo sợ thất bại nước mất nhà tan, nên vua muốn dựa vào thế lực nhân loại như ngựa xe và binh mã của ngoại bang và muốn cậy nhờ các thần linh khác để cứu đất nước khỏi lâm cảnh điêu linh. Vua A-khát đã không hiểu ý thâm sâu của Đức Chúa, Đấng muốn ở với và đồng hành cùng Dân để cứu độ họ. Xảy ra sự giằng co nơi tâm hồn nhà vua, ông bán tín bán nghi về quyền năng của Đức Chúa, ngay lúc đó tiên tri I-sa-i-a xuất hiện đúng lúc và can gián nhà vua, xin vua cứ vững tin vào Đức Chúa (x. Is 7,1-17), Người sẽ giải thoát vua và cứu nguy dân tộc của vua.
Tiên tri I-sa-i-a đề nghị vua hãy xin Đức Chúa làm một điềm lạ để cổ vũ nhà vua yên tâm mà đặt niềm tin tuyệt đối vào Đức Chúa. Hãy xin Đức Chúa “một dấu chỉ dưới đáy âm phủ hay trên chốn cao xanh”, và một khi được đón nhận dấu lạ đó nhà vua sẽ tin tưởng vào quyền năng của Đức Chúa mà không chạy theo các ngẫu thần khác nữa. Nhà vua vì đã không tin tuyệt đối vào quyền năng của Thiên Chúa, vua khéo léo từ chối lời đề nghị của nhà tiên tri. Vua nói: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa” (Bài đọc 1. Is 7,10-14). Nhà vua nhất quyết khước từ lời đề nghị, không đi theo con đường tiên tri I-sa-i-a đề xuất, là phải tuyệt đối tin tưởng vào Đức Chúa. Đức Chúa sẽ giải quyết mọi sự. Vốn đức tin yếu đuối, nhà vua không nhìn xa trông rộng, vua chối phắt không tin tưởng vào Đức Chúa. Trong hoàn cảnh đó tiên tri I-sa-i-a mới tuyên sấm: “Nầy đây một thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7,14). Dù nhà vua cứng đầu không xin một dấu chỉ nào từ Đức Chúa, thì Đức Chúa vẫn cho nhân loại một dấu chỉ là một trinh nữ sẽ mang thai và sinh hạ Đấng Em-ma-nu-en, lời sấm nầy sẽ được thực hiện nơi Đức Ma-ri-a.
Tám trăm năm sau, lời sấm được thực hiện qua việc Mẹ Ma-ri-a cưu mang Chúa Cứu Thế cách nhiệm lạ, Mẹ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, việc phi thường nầy, làm cho ông Giu-se, người đã thành hôn với Đức Trinh Nữ, đã có ý định lìa bỏ Đức Ma-ri-a vì cảm thấy mình bất xứng khi tiếp cận với mầu nhiệm cao cả đang xảy ra nơi Đức Ma-ri-a. Ông Giu-se đã được thiên thần báo: “Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (Bài Tin Mừng. Mt 1, 20-21). Việc Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ Ma-ri-a vượt khỏi tầm suy nghĩ của nhân loại.
Sự việc xảy ra để ứng nghiệm lời sấm của tiên tri I-sa-i-a (Is 7,14). Lời sấm của I-sa-i-a và sự thể hiện lời sấm đó nơi bản thân Đức Ma-ri-a đập vào mắt chúng ta. Kế hoạch cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa đã được thực hiện. Đây là niềm vui hoàn vũ cho nhân loại, một niềm vui trào tràn, con người được cứu độ khỏi tội lỗi và sự chết. Từ khi lời sấm được tuyên ra cho đến khi lời tiên tri được thực hiện xảy ra cách nhau 800 năm.
Cũng như vua A-khát, người thời đại hôm nay từ chối những dấu chỉ tôn giáo, họ có chương trình và kế hoạch riêng để xây dựng đô thị trần thế, bảo đảm an ninh và hạnh phúc. Con người trần gian tưởng chừng như nắm vững vận mạng của mình, tự lập hoàn toàn tách khỏi Thiên Chúa. Đúng hơn họ coi thường đời sống tâm linh, phủ nhận đức tin, có khi còn coi Thiên Chúa như cạnh tranh, thù địch với con người; và để cho con người được tự do, họ khai tử Thượng đế, họ tuyên bố : “Thiên Chúa đã chết” như quan niệm của hai triết gia vô thần Nietzsche (Đức) và Albert Camus (Pháp). Trần gian như không còn chỗ dành cho Thượng đế nữa !
Và cũng như vua A-khát, con người hôm nay cần được thét vào tai “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, đồng hành với chúng ta và nâng đỡ chúng ta qua tất cả thăng trầm cuộc sống. Một thế giới loại bỏ Thiên Chúa, sẽ tôn con người làm chúa cho mình, thì thật là đại họa cho nhân loại. Làm sao nhân loại có thể xây dựng một thế giới hòa bình và yêu thương bằng con đường chạy đua trang bị vũ khí? Làm so nhân loại tìm được hạnh phúc khi loại bỏ Thiên Chúa Tình Yêu. Trách nhiệm của người Ki-tô hữu là làm chứng rằng tin vào Đức Giê-su Ki-tô không làm ta mất tự do nhưng trái lại cổ vũ con người sống dấn thân xây dựng xã hội trần thế công bằng và hoà bình dựa trên tình yêu của Thiên Chúa.
Lạy Đấng Em-ma-nu-en, xin hãy đến và cư ngụ trong thế giới con sống, cũng như cư ngụ trong tâm hồn con, vì một thế giới vắng bóng Thiên Chúa là một đại hoạ cho nhân loại. Amen
Lm Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh, Giáo xứ Đức An, Pleiku
_______________________
Suy niệm 3: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ

“Ông Giuse, chồng bà [Maria], là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1:19).
Quý ông bà và anh chị em thân mến,
Đoạn Lời Chúa hôm nay kể về câu chuyện Thiên Chúa sai sứ thần truyền tin cho Thánh Giuse trong giấc mộng. Đây cũng là đoạn Tin Mừng được chọn cho ngày thứ hai (18/12) của tám ngày chuẩn bị mừng biến cố Chúa Giáng Sinh.
Đọc diễn biến của biến cố truyền tin này, tôi cảm nhận một sự dằn xé nội tâm nơi con người Thánh Giuse, nhất là qua câu nói “Ông Giuse, chồng bà [Maria], là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1:19).
Vì Thánh Giuse là người công chính, nên ngài không thể làm ngơ chuyện “người vợ tương lai” có thai bí ẩn. Do đó, ngài cân nhắc việc tố giác vợ mình. Tuy nhiên, cũng vì sự công chính này, ngài đã suy xét sự việc cách cẩn thận và có chút tin tưởng nơi người vợ cũng như hoài nghi về những suy đoán của ngài trước bào thai mà vợ ngài đang cưu mang. Tóm lại, đối diện với sự thật, Thánh Giuse đã lúng túng, bế tắc và tìm cách thoái lui.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã can thiệp và giúp Thánh Giuse tháo gỡ bế tắc, can đảm đón nhận sự thật. Điều huyền nhiệm trong biến cố truyền tin cho Thánh Giuse là giấc mộng. Tại sao Thiên Chúa không sai sứ thần gặp Thánh Giuse nói chuyện trực tiếp như đã làm như vậy với Đức Maria? Trong dân gian, có người cho rằng những gì chúng ta mơ thấy trong giấc mộng thì xảy ra đúng với đời thật. Tuy nhiên, Giáo Hội cũng khuyên các tín hữu nên tránh tin và giải thích về giấc mơ cách mù quáng và mê tín (GLHTCG 2116)! Như thế, giấc mơ của Thánh Giuse là thật hay giả? Chúng ta tin rằng đó là giấc mơ thật, bởi lẽ khi tỉnh giấc, ngài đã làm theo những gì diễn ra trong giấc mơ và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa tiếp tục suôn sẻ để Ngôi Lời Nhập Thể được ở giữa thế gian và đem ơn giải thoát đến cho cả nhân loại. Hơn nữa, Thiên Chúa có cách tiếp cận của Người, bởi lẽ tính cách và giới tính của Thánh Giuse và Đức Maria khác nhau nên việc tiếp nhận thông điệp sẽ khác nhau. Đồng thời, trong trình thuật Thời Thơ Ấu của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không chỉ nói với Thánh Giuse qua một giấc mơ “Truyền Tin” này mà thôi. Từ giấc mơ đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay, Thiên Chúa lại tiếp tục gửi thông điệp cho ngài qua ba giấc mơ kế tiếp, để ngài đưa Mẹ Maria trở về nguyên quán vì đợt kiểm tra dân số, và giữa đường trở về nguyên quán tại Bê-lem nơi đồng hoang hiu quạnh, Chúa Giê-su ra đời. Sau đó, cả gia đình trốn sang Ai Cập để tránh sự tàn sát của vua Hê-rô-đê (x. Mt 2:13). Tiếp đến, sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, được báo mộng (x. Mt 2:19-20), thánh Giuse đưa gia đình trở về Giu-đê, nhưng trên đường đi, ngài lại được báo mộng đừng quay lại Giu-đê vì người kế vị Hê-rô-đê là Ác-khê-lao cũng rất “nguy hiểm” (x. Mt 2:22), nên cuối cùng ngài chọn tiến về Na-da-rét để sống đời ẩn dật, dạy dỗ Chúa Con khôn lớn, chuẩn bị hành trang bước vào sứ mạng công khai để cứu nhân độ thế.
Trong Kinh Thánh Tân Ước, có ba biến cố Truyền Tin, đó là truyền tin cho ông Dacaria, Đức Maria và Thánh Giuse, và cả hai biến cố này đều nằm trong kế hoạch dọn đường cho Ngôi Lời Nhập Thể thực hiện công trình cứu chuộc của Người. Các ngài đều đối diện với sự thật là ý muốn cứu chuộc nhân loại của Ba Ngôi Thiên Chúa, và các ngài đã lúng túng, bối rối, dằn xé tâm tư. Ai đã giúp các ngài tháo ngỡ? Chỉ có Thiên Chúa mà thôi. Thiên Chúa đã giải quyết tất cả những bối rối của các ngài cũng như của chúng ta khi phải đối diện với Sự Thật, với thánh ý của Thiên Chúa.
Ngày nay, khi đối diện với vấn đề nan giải, chúng ta sẽ làm gì? Liệu chúng ta sẽ chọn đi tìm kiếm Chúa trong thầm kín và lặng thinh để lắng nghe thông điệp của Người? Liệu chúng ta sẽ chọn buông thả, nhắm mắt làm ngơ, mặc kệ cho số phận? Đâu là ranh giới giữa đức tin và mê tín? Thánh Giuse cho chúng ta nhận thức rõ sự khác biệt giữa đức tin và mê tín ở chỗ: ngài chọn làm điều Thiên Chúa muốn để sau khi chọn lựa và sống điều đó, hoa trái trổ sinh – ngài hoàn thành sứ mạng Thiên Chúa trao là đem Chúa Giêsu đến cho nhân loại này! Thánh Giuse có chứng minh rằng đức tin của ngài đặt nơi Thiên Chúa trổ sinh hoa trái là nhờ ơn Thiên Chúa – Thiên Chúa can thiệp để ngài hành động và hành động ấy góp phần đem lại sự sống cho cả nhân loại. Vì lẽ đó, để xác thực tôi đang có đức tin hay không thì nên hành động bằng nhiều cách thế khác nhau và cụ thể, như luôn sống tâm tình biết ơn Chúa, siêng năng đọc và suy niệm Lời Chúa, lãnh nhận đều đặn các Bí tích, và cộng tác với ơn Chúa để xả thân làm chứng cho Tin Mừng, v.v.. vì người mê tín thì không bao giờ làm được những điều ấy!
Chúc quý vị cầu nguyện sốt sắng!
(Lm Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ – Giáo xứ Hoa Lư, Pleiku)
![]()



