Chúa Nhật XV Thường Niên, Năm B (CN 14.07.2024) – Không Được Mang Gì

Bài đọc 1: Am 7,12-15

Hãy đi làm ngôn sứ, tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.

Bài trích sách ngôn sứ A-mốt.

12 Ngày ấy, tư tế đền thờ Bết Ên là A-mát-gia nói với ông A-mốt : “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm ! 13 Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều.” 14 Ông A-mốt trả lời ông A-mát-gia : “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. 15 Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi : “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.”

Đáp ca: Tv 84,9ab và 10.11-12.13-14 (Đ. c.8)

Đ.Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa,
và ban ơn cứu độ cho chúng con.

9abTôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán,
điều Chúa phán là lời chúc bình an
cho dân Người, cho kẻ trung hiếu.10Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa,
để vinh quang của Người
hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.

Đ.Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa,
và ban ơn cứu độ cho chúng con.

11Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ,
hoà bình công lý đã giao duyên.12Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp,
công lý nhìn xuống tự trời cao.

Đ.Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa,
và ban ơn cứu độ cho chúng con.

13Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc
và đất chúng ta trổ sinh hoa trái.14Công lý đi tiền phong trước mặt Người,
mở lối cho Người đặt bước chân.

Đ.Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa,
và ban ơn cứu độ cho chúng con.

Bài đọc 2: Ep 1,3-14 

Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-xô.

3Chúc tụng Thiên Chúa
là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Trong Đức Ki-tô,
từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc
cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.
4Trong Đức Ki-tô,
Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để trước thánh nhan Người,
ta trở nên tinh tuyền thánh thiện,
nhờ tình thương của Người.
5Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người,
Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử
nhờ Đức Giê-su Ki-tô,
6để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời,
ân sủng Người ban tặng cho ta
trong Thánh Tử yêu dấu.
7Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra
chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi
theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.
8Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta
cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.
9Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu :
thiên ý này là kế hoạch yêu thương
Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô.
10Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn
là quy tụ muôn loài trong trời đất
dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô.
Cũng trong Đức Ki-tô,
11Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự
theo quyết định và ý muốn của Người,
đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng
theo kế hoạch của Người,
12để chúng tôi là những người đầu tiên
đặt hy vọng vào Đức Ki-tô,
chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.
13Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa
anh em đã được nghe lời chân lý
là Tin Mừng cứu độ anh em ;
vẫn trong Đức Ki-tô,
một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần,
Đấng Thiên Chúa đã hứa.
14Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta,
chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc,
để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.

Tung hô Tin Mừng: x. Ep 1,17-18

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Xin Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, soi trí mở lòng cho chúng ta thấy rõ, đâu là niềm hy vọng, mà ơn Người kêu gọi đem lại cho chúng ta. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng: Mc 6,7-13
 
 
 

Đức Giê-su bắt đầu sai các Tông Đồ đi rao giảng.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

7 Khi ấy, Đức Giê-su gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trên các thần ô uế. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy ; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng ; 9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người bảo các ông : “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và không nghe anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi đất dưới chân để tỏ ý cảnh cáo họ.” 12 Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13 Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

(Nguồn: ktcgkpv.org)

—————————-

 

Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên

 

 

ĐƯỢC SAI ĐI

 

Mỗi khi tham dự Phụng vụ Thánh Thể, vào lúc kết thúc Thánh lễ, vị linh mục chủ tế nói với cộng đoàn: “Lễ xong chúc anh chị em đi bình an!”. Nhiều người hiểu lầm coi đây là lời chào tạm biệt của vị linh mục. Đây không phải là lời chào, mà là lệnh truyền lên đường, còn gọi là lời sai đi. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta đón nhận Lời Chúa và rước Thánh Thể. Vào lúc Phụng vụ Thánh lễ kết thúc, cũng là lúc một Thánh lễ khác khởi đầu, đó là Thánh-lễ-cuộc-đời. Giữa Phụng vụ Thánh lễ và Thánh-lễ-cuộc-đời có một mối liên hệ mật thiết. Một linh mục thánh thiện đã nói: “Trong Thánh lễ buổi sáng, tôi là tư tế và Chúa Giê-su là của lễ. Còn trong thời gian trọn một ngày, chính tôi là của lễ và Chúa Giê-su là Tư tế”. Như thế, lời tuyên bố cuối lễ là lời nhắn nhủ các tín hữu với nội dung đại ý như sau: chúng ta vừa kết thúc Phụng vụ Thánh lễ. Chúng ta vừa được nuôi dưỡng bằng Lời Hằng Sống và Thánh Thể. Giờ đây chúng ta hãy khởi đầu một nghi lễ khác. Anh chị em hãy lên đường, để chia sẻ những gì mình cảm nghiệm khi lắng nghe Lời Chúa và khi rước Thánh Thể trong Thánh lễ này. Lời tuyên bố của vị linh mục, chính là lời sai đi, nhân danh Chúa Giê-su và nhân danh Giáo Hội.

Chúa nhật tuần trước chúng ta đã suy tư về cuộc đời và sứ vụ của các ngôn sứ trong Cựu ước. Các ngài là những người được Chúa chọn và sai đi. Khi thi hành sứ vụ, các ngài luôn xác tín mình chỉ là phương tiện Chúa dùng. Ông A-mốt, người sống ở miền Bắc, vào thế kỷ thứ tám trước Công nguyên, đã giải thích ơn gọi của mình. Ông thú nhận, ông không thuộc gia đình hay dòng dõi ngôn sứ, mà ông chỉ là người chăn chiên và người hái sung. Đang lúc đi sau đàn chiên, chính Đức Chúa đã “bắt” lấy ông và sai ông đi. Nhờ xác tín được Chúa sai đi, nên ông A-mốt kiên vững trước lời chế nhạo và đe dọa của một số tư tế thời bấy giờ. Ông không chùn bước trước những nghịch cảnh, nhưng luôn trung thành với sứ mạng được trao.

Chúa Giê-su là Đấng Thiên sai, hay còn gọi là Đấng Mê-si-a. Người luôn khẳng định: Người được Chúa Cha sai đến trần gian. Người luôn trung thành với Chúa Cha. Suốt cuộc đời dương thế, Người chỉ làm những gì đẹp lòng Chúa Cha. Trong giây phút bi thương hoảng loạn ở vườn Cây Dầu, Chúa Giê-su đã thưa với Chúa Cha: “Xin đừng theo ý con, một xin theo ý Cha”.

Khi thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng, Chúa Giê-su đã gọi một số người theo Chúa. Trong số đó có nhóm Mười Hai, được Người gọi họ là “tông đồ – απόστολος – Apostolos”, có nghĩa là “người được sai phái”, hay “sứ giả” (x. Lc 6,12-19). Người sai các ông đi “hai người một”. Điều này cho thấy tính tập thể và liên đới của sứ mạng tông đồ. Thánh Mác-cô hôm nay nói với chúng ta những lời dặn dò của Chúa Giê-su, khi Người sai các tông đồ lên đường. Người dạy các ông không gắn bó lệ thuộc vào bất cứ điều gì. Người thợ đáng được hưởng lương. Người tông đồ có quyền nhận những gì được biếu tặng để lo cho cuộc sống và giúp thi hành sứ mạng, nhưng họ phải hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc vào vật chất. Chúa Giê-su cũng mời gọi các ông sống nghèo, như bản thân Người đã sống nghèo. Người đã có một cuộc sống không nhà không cửa, không có nơi dựa đầu. Kinh nghiệm cho thấy, một khi người tông đồ bị lệ thuộc vật chất, hoặc xao lãng việc tông đồ để tích lũy của cái và làm kinh tế, họ sẽ thất bại. Bởi lẽ, người tông đồ đã có Chúa là gia nghiệp cuộc đời.

Thánh Phao-lô trong Bài đọc II mời gọi chúng ta chiêm ngắm Đức Giê-su chiến thắng và hiển trị. Nội dung Bài đọc II vốn là một thánh thi được dùng trong Phụng vụ thời Giáo Hội sơ khai. Tác giả khởi đi từ biến cố thập giá, để nói đến ơn cứu độ Thiên Chúa thực hiện trong Đức Giê-su, và vương quyền Chúa Cha ban cho Chúa Con. Nhờ vương quyền này, Chúa Giê-su là Đấng thống trị mọi loài, không phải bằng uy quyền độc tài trần thế, nhưng bằng ân sủng và tình yêu. Mỗi tín hữu Ki-tô và cả Giáo Hội được thấm nhuần ân sủng của Chúa Giê-su. Trọn vẹn cuộc sống của người tín hữu được kết hợp mật thiết với Chúa, nhờ lắng nghe và thực thi Lời của Người.

Nhờ Bí tích Thanh tẩy, Ki-tô hữu được trao ban chức năng ngôn sứ. Sách Giáo lý Công giáo số 905 đã nêu rõ như sau: “Các giáo dân chu toàn sứ vụ ngôn sứ của mình bằng việc Phúc âm hóa, nghĩa là loan báo Đức Ki-tô bằng chứng từ đời sống và bằng lời nói. Nơi các tín hữu giáo dân, việc Phúc âm hóa này mang một sắc thái đặc thù và một hiệu quả đặc biệt, vì được thực hiện trong những hoàn cảnh bình thường của đời sống”.

Mỗi chúng ta đều được Chúa Giê-su sai đi. Lời tuyên bố kết lễ hằng ngày là lời sai đi nhân danh Chúa Giê-su và nhân danh Giáo Hội. Xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, sức mạnh và can đảm để thực thi nhiệm vụ ngôn sứ trong đời sống hằng ngày, Amen.

+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

—————————-

 

Suy niệm 2: Lm. Lu-y Gonzaga Nguyễn Quang Vinh

 

 

TUYỂN CHỌN và SAI ĐI

 

Tuyển Chọn là chủ đề của cả ba bài đọc phụng vụ Chúa nhật hôm nay:  Thiên Chúa chọn tiên tri Amốt, chọn dân Ítraen, và Đức Giêsu tuyển chọn các môn đệ.  Một số người được tuyển chọn để thực hiện chương trình của Thiên Chúa, tất cả có điểm nhắm chung là “Quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền thủ lãnh là Đức Kitô” (Bài Đọc 2. Ep 1,3-14). 

Hướng đi căn bản này chỉ đạo toàn bộ lịch sử của dân Ítraen trong quá khứ.  Dân tộc này được tuyển chọn để chuẩn bị đón Đức Giêsu Kitô.  Đời sống đức tin của chúng ta được định hướng đi về tương lai do Đức Giêsu Kitô hướng dẫn, tương lai này liên hệ đến cuộc đời của mỗi chúng ta và của cả nhân loại, điều nầy cho thấy Thiên Chúa làm chủ lịch sử nhân loại.

Ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa được thể hiện qua sự tuyển chọn người này hay người kia: “Đấng tuyển chọn chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện… Người tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (x. Bài Đọc 2. Ep 1,3-14).  Bí mật này được Đức Giêsu ca tụng thay cho chung ta: “Lạy Cha con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này nhưng mặc khải cho những người bé mọn.  Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha ” (Lc 10, 21).  Mỗi người đi theo một ơn gọi, và khi đi hết cuộc đời của mình, con người mới nhận ra sự huyền diệu mà Thiên Chúa đã dành cho mình.

Thiên Chúa quyền năng, Người hành động theo sự khôn ngoan và tự do của Người.  Ơn làm tiên tri được thực thi cho Amốt với tất cả sự bất ngờ của ông, ngay cả khi ông bị một tư tế chế nhạo và xua đuổi mời ông đi chỗ khác mà tuyên sấm, Amốt trả lời cho vị tư tế đó rằng: “Tôi không phải là ngôn sứ.  Tôi chỉ là người chăn súc vật và chăm sóc cây sung.  Chính Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: ‘Hãy đi tuyên sấm cho Ítraen dân Ta’” (x.Bài Đọc 1. Am 7,12-15). 

Điều nầy cho thấy Thiên Chúa có thể sử dụng con người để thực thi ý định của Người, ngay cả khi con người thấy mình bất xứng với ơn gọi ấy.  Ở đây chúng ta thấy Thiên Chúa thật sự làm chủ lịch sử, Người uốn nắn lịch sử theo ý của Người.  Điển hình là trường hợp của thánh Phaolô, một kẻ hung hăng bắt bớ Kitô giáo, lại đã được Đức Kitô phục sinh chinh phục trên đường Đamát, thánh Phaolô đã trở nên tông đồ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại.  “Không phải con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn con !”

Lời Chúa phải được ưu tiên phục vụ, không bị xiềng xích bởi bất cứ thế lực nào.  Lệnh truyền giáo của Đức Giêsu không dựa cậy vào sức mạnh kinh tế, tức “lương thực, bao bị, tiền giắt lưng”, ngay cả “mặc hai áo” cũng không.  Ở đây chúng ta hiểu lệnh truyền giáo có tính cấp bách và phải giữ sự khó nghèo trong hành trang đi đường, tuyệt đối đặt tin tưởng vào Thiên Chúa.  Lệnh lên đường chỉ được mang theo “một cây gậy, một đôi dép”, “không mang hai áo”, nói lên sự thanh thoát của nhà truyền giáo, không bám víu vào của cải vật chất, không vướng mắc vật chất, luôn đơn giản sẵn sàng lên đường thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu.  Nhưng luôn đi hai người để làm chứng cho sự thật và để cho người khác tin, vì chứng của hai người thì đáng tin cậy theo quan niệm Do-thái. 

Con đường truyền giáo có khi gặp khó khăn trắc trở và thường là như vậy, nhà truyền giáo có khi được đón tiếp nồng hậu nhưng cũng thường bị xua đuổi hay bắt bớ và giết chết.  Một điển hình tại địa phận Kontum, vào năm 1842 Đức Cha Têphanô Cuénot Thể mở cuộc truyền giáo Tây Nguyên Kontum, ngài sai các thừa sai lên miền thượng du, họ gặp  vô vàn khó khăn về thổ nhưỡng, về người bản địa, về lệnh bắt đạo của vua chúa lúc bấy giờ…  Với ý định kiên quyết mở đạo cho anh em dân tộc bằng bất cứ giá nào, sau 20 lần thất bại, lần thứ 21 được tiến hành và sự thành công đã đơm bông kết trái theo ý nguyện của nhà thừa sai.  Tuy nhiên cái giá phải trả là chính Đức cha đã bị kết án tử hình chém đầu bêu giữa chợ.  Ngài đã chết rủ tù trước khi án lệnh triều đình đến, quan trấn thủ đã cho đào mồ ngài và ném thi hài ngài xuống sông.  Ngài đã được tôn phong hiển thánh trong số 117 vị tử đạo tại Việt Nam ngày 19. 6. 1988 tại Rôma.  Ngày nay tượng thánh Têphanô Thể vương cao nơi khuôn viên nhà thờ chính tòa Kontum.  Ngài là vị thánh sáng lập miền truyền giáo Tây Nguyên.

Thân phận đau thương nầy này, Đệ Nhất Thừa Sai là Đức Giêsu đã kinh qua và bị xử tệ, bị “đóng đinh vào thập giá”.  Đức Giêsu  không giấu giếm khó khăn này khi sai các môn đệ ra đi truyền giáo.  Ơn gọi truyền giáo cũng là ơn gọi của mọi Kitô hữu và của Giáo Hội.  Ơn gọi này làm nên bản chất của Giáo Hội, Công đồng Vaticanô II định nghĩa: Giáo hội tự bản chất là truyền giáo, nghĩa là một khi Giáo Hội không còn truyền giáo nữa, thì Giáo Hội chỉ là xác chết, chỉ là tổ chức xã hội thuần túy.  Những gì nói về Giáo hội thì cũng nói về người Kitô hữu nữa.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con được Chúa mời gọi rao giảng Tin Mừng, xin cho chúng con ý thức và thi hành sứ mệnh cao cả đó nhất là trên Tây nguyên này. Amen

Lm Luy Nguyễn Quang Vinh – Chính xứ Đức An, Pleiku

—————————-

 

Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên

 

 

KÊU GỌI VÀ SAI ĐI

Suy niệm

Chính Chúa Giêsu chọn gọi và thiết lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Ngài và được sai đi để chia sẻ sứ mạng của Ngài. Các ông “được sai đi từng hai người một ”, để hỗ trợ và nâng đỡ lẫn nhau. Để ra đi thi hành sứ mạng, Chúa Giêsu ban cho các ông quyền trừ quỷ, và được căn dặn rõ ràng là không mang lương thực, bao bị, tiền bạc… Không lương thực để khỏi phải bận tâm để dành; không bao bị để tránh việc gom góp của cải; không tiền bạc để không toan tính theo ý riêng; chỉ trừ mang theo cây gậy. Cây gậy tượng trưng quyền năng của Thiên Chúa. Với cây gậy nhỏ bé, Môsê làm nhiều dấu lạ điềm thiêng trước mặt vua Pharaô (x. Xh 4,2), xẻ đôi Biển Đỏ (Xh 14,16) và làm cho nước tuôn chảy từ một tảng đá (Xh 17,5). Các môn đệ của Đức Giêsu chỉ cầm một cây gậy: cây gậy của niềm tin, để có thể bức phá mọi giới hạn của con người, nhờ cậy dựa vào quyền năng của Lời Chúa mà thôi.

Hành trang lên đường của các Tông đồ xem ra không có gì. Ra đi mà không có một chút bảo đảm, không cảm thấy an toàn. Điều đó đòi các ông phải hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, Đấng luôn quan phòng mọi sự khi các ông hết lòng với sứ vụ. Chúa muốn tránh cho các ông tất cả những kiểu cách mang lại lợi lộc cho bản thân, cũng như mọi lệ thuộc và trói buộc làm mất tự do của người loan báo Tin Mừng. Các ông cũng không được bỏ nhà này đến nhà kia để tìm kiếm tiện nghi và thoải mái. Cũng không cố thủ một nơi hay đóng đô một chỗ, sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi, sẵn sàng đón nhận và cũng sẵn sàng buông bỏ: một tâm thế thanh thoát không vướng lụy. Chắc chắn các ông rất vui mừng, vì từ những người đánh cá, nay trở thành nhà rao giảng.

Các Tông đồ loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, nhưng đòi người ta phải sám hối và hoán cải. Đây là điều không ai ưa, nhưng các ông phải can đảm nói lên những điều phải nói: không được giảm bớt những đòi hỏi của Tin Mừng; không dùng Tin Mừng để “chiêu mộ” tín đồ; không mị dân hay vuốt ve dư luận để thu phục tình cảm. Người tông đồ phải chấp nhận mọi hình thức đón tiếp: chân thành nồng hậu hay dửng dưng lạnh nhạt. Ai không đón tiếp thì giũ bụi chân ra đi, không có nghĩa là tỏ sự khinh bỉ, nhưng cho thấy có một sự tách biệt quyết liệt giữa sự lành và sự dữ, giữa tin và không tin, giữa chấp nhận và từ chối. Từ chối sứ giả là từ chối sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa.

Ơn gọi và sứ mạng của các Tông đồ cũng là ơn gọi và sứ mạng đời Kitô hữu. Nhiệm vụ của chúng ta hôm nay không khác với nhiệm vụ của Nhóm Mười Hai: đó là loan báo Tin Mừng để giảm thiểu ảnh hưởng của sự dữ. Để chu toàn được sứ mạng này, chúng ta cần phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu, khởi sự từ Ngài và quy chiếu về NgàiCũng như các Tông đồ, chúng ta được sai đến với mọi người không trừ ai, cũng không ngồi đó mà chờ người ta đến với mình. Quyền Đức Giêsu ban cho các ông không phải là quyền điều khiển người khác, nhưng là quyền để xua trừ ma quỉ, để giải thoát loài người khỏi tay chúng. Đó là một ân ban để chúng ta phục vụ, chứ không phải để được phục vụ, càng không được tạo nên một uy thế để thống trị.

Làm chứng bằng lời nói là một khía cạnh của sứ mạng tông đồ. Tuy nhiên, sứ mạng này sẽ khiếm khuyết nếu việc làm chứng bằng lời nói không được biểu hiện bằng việc làm, bằng chính đời sống mình. Chẳng ai tin người nói suông, người ta chỉ tin vào nhân chứng. Cũng như Đức Giêsu yêu cầu các Tông đồ phải chu toàn sứ mạng trong sự nghèo khó. Đời Kitô hữu cũng không thể để cho mình bị ràng buộc hay bị nô lệ cho tiền bạc của cải hay danh vọng, là những thứ dễ làm tha hóa đời sống mình, đánh mất bản chất của người môn đệ Đức Kitô.

Cần thoát ra khỏi những ham mê vật chất và tiện nghi sung sướng, để sống lý tưởng đời Kitô hữu. Ngày nay, chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa, phải có những phương tiện cần thiết để phục vụ cách hiệu quả hơn, nhưng chủ yếu vẫn là cậy dựa vào Chúa. Đừng chạy theo toan tính của mình cũng như cách thức của người đời, kẻo xa lạc với đường nẻo và cách thức của Chúa. Hãy để mình trở nên khí cụ trong bàn tay Chúa, để Ngài cứu chữa thế giới ngày càng có nhiều bệnh tật và đau khổ, do tội lỗi và sự u mê lầm lạc của con người.

Cuộc đời ta cao đẹp biết bao và vinh hạnh biết mấy, vì được góp phần với Chúa để Phúc âm hóa thế giới này. Phúc âm hóa không chỉ là “giảng dạy” hay đem Lời Chúa thấm nhập vào môi trường sống, nhưng còn là “giải thoát”, là “cứu trợ”, là chia sẻ cảnh ngộ của người khác.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Chính Chúa đã chọn gọi các Tông đồ,
để họ được sống cận kề bên Chúa,
và để Chúa sai đi giảng Tin Mừng,
dùng chính cuộc đời mình làm nhân chứng.

Chúa đã ban quyền năng cho các ông,
trừ ma quỷ và chữa lành bệnh tật,
nhưng không được cậy dựa vào vật chất,
mà phải sống niềm phó thác cậy trông,
càng không dựa vào thế lực người đời,
để luôn sống sáng ngời tình yêu Chúa.

Chúng con cũng được gọi và sai đi,
loan báo Chúa nơi nào mình có mặt,
cũng với niềm cậy trông và phó thác,
để mình luôn thanh thoát trên đường đời,
dám sống Tin Mừng Chúa ở mọi nơi,
đem lại cho mọi người sự sống mới.

Hằng ngày con vẫn dâng lời kinh nguyện,
cầu xin cho
 Nước Cha được trị đến,
nhưng vì tự lòng con chưa yêu mến,
nên chẳng thiết tha đến với mọi người,
đã quen sống ươn lười và khép kín,
nên khiến con xa lạc với lời kinh.

Con cho rằng giữ Chúa Nhật là xong,
rồi ra về với tâm hồn trống rỗng,
không thao thức đem sớt chia sự sống,
mà con đã hiệp thông với Mình Ngài.

Xin cho con từ nay biết hối cải,
đừng sống theo thứ quan niệm đã sai,
nhưng hăng hái loan báo Tin Mừng Ngài,
để Chúa là niềm vui con luôn mãi. 
Amen.

Lm. Thái Nguyên

 

WGPKT(11/07/2024) KONTUM