Dẫn nhập

1. Tục hóa ở phương Tây

2. Phản ứng của Giáo hội Công giáo trước tục hóa

3. Định hướng mục vụ trong thời đại tục hóa

Kết luận

Dẫn nhập

Hai tuần trước tôi được xem bài thuyết trình của linh mục Athanasio Nguyễn Quốc Lâm: Đạo luyện tri thức trong bối cảnh tục hóa của xã hội hiện đại[1]. Trong đó, ngài đề cập đến triết gia khá nổi tiếng người Do Thái giáo nói về bốn khía cạnh tục hóa[2], đó là Jonathan Sacks (1948-2020). Bài viết dưới đây không đi vào triết lý. Tuy nhiên, cho phép tôi phân tích phong trào tục hóa đã, đang và sẽ ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào.

Tục hóa (secularization) không phải theo nghĩa tục tĩu như nhiều người thường nghĩ. Tục hóa là hiện tượng xã hội – văn hóa mà trong đó tôn giáo dần mất ảnh hưởng. Thay vì đề cao những giá trị tôn giáo, tục hóa ngày càng muốn gạt niềm tin tôn giáo sang một bên. Họ muốn xã hội đề cao tính thế tục (secular), khoa học và lý trí hơn. Trong bối cảnh này, Giáo hội Công giáo, vốn từng giữ vai trò trung tâm cả đạo lẫn đời, đã và đang trải qua những thách đố từ trào lưu tục hóa. Trong bối cảnh này, Giáo hội luôn đau đáu câu hỏi: Làm sao để giúp các tín hữu thích nghi và tiếp tục làm chứng cho Thiên Chúa giữa thời đại tục hóa?

1. Tục hóa ở phương Tây

Ở châu Âu thời Trung Cổ, đời sống xã hội gần như gắn liền với Kitô giáo. Công giáo nắm vai trò trung tâm cả về tôn giáo lẫn chính trị. Thần quyền và thế quyền là một. Khi nhìn lại, chúng ta có thể thấy những mầm mống của tục hóa thời này. Chẳng hạn sự phân biệt giữa quyền bính đời (thế quyền) và đạo (giáo quyền) phần nào hình thành qua các cuộc tranh luận giữa Giáo hoàng và hoàng đế. Đó là chưa kể các trường đại học ra đời thế kỷ 12–13 bắt đầu phát huy tự do nghiên cứu ngoài khuôn khổ thần học kinh viện. Khuynh hướng “nhân bản” chớm nở rộ khi con người quan tâm đến giá trị đời này chứ không chỉ đời sau.

Bước sang thời Phục hưng (thế kỷ 14–16), châu Âu chứng kiến sự hồi sinh mạnh mẽ của tinh thần nhân văn cổ điển. Trào lưu nhân bản chủ nghĩa (humanism) đề cao con người và những thành tựu trần thế của họ. Nhiều nơi khuyến khích nghiên cứu khoa học, nghệ thuật và triết học ngoài khuôn khổ Công giáo. Chúng ta đã nghe đến những tên tuổi lừng danh như Leonardo da Vinci, Michelangelo, Shakespeare, Machiavelli. Họ thể hiện tinh thần đề cao lý trí và kinh nghiệm nhân loại. Cùng với đó, các khám phá khoa học của Copernicus và Galileo đã thách thức Giáo hội hiểu về thế giới tự nhiên. Một cách nào đó, khi người ta hứng thú với khám phá văn hóa, tri thức và khoa học trần thế, Thiên Chúa ít được quan tâm. Dĩ nhiên, hầu hết các tên tuổi nổi bật thời Phục hưng vẫn là tín hữu, nhưng họ mở ra một não trạng mới, dám suy nghĩ và sáng tạo ngoài thẩm quyền tuyệt đối của Giáo hội.

Dòng chảy trên trở nên cuồn cuộn trong trời kỳ Khai Sáng, khi lý trí dám phê phán tôn giáo, ở thế kỷ kỷ 17–18. Phong trào Khai Sáng đẩy mạnh hơn nữa tiến trình tục hóa trong đời sống trí thức và xã hội châu Âu. Các triết gia khai sáng như Voltaire, Diderot, Rousseau, Kant… đề cao lý trí con người và các quyền tự nhiên. Nhiều người còn phê phán giáo điều hay đặc quyền vô lý của Giáo hội. Dù họ muốn cải cách chứ chưa hẳn chủ trương loại bỏ tôn giáo, nhưng tư tưởng của họ hun đúc ngọn lửa chủ nghĩa duy lý thế tục và bài giáo sĩ (anticlericalism) trong dân chúng. Dưới ảnh hưởng của họ, nhiều trí thức và quan chức bắt đầu xem tôn giáo là niềm tin riêng. Tôn giáo không nên chi phối công việc nhà nước, khoa học hay thậm chí là triết học. Đây chính là tiền đề tư tưởng cho việc tách biệt tôn giáo khỏi đời sống công cộng, vốn là một đặc trưng của xã hội thế tục.

Chuyện gì đến cũng đã đến. Cách mạng Pháp 1789 không chỉ lật đổ quân chủ mà còn trực tiếp tấn công vào vị thế của Giáo hội Công giáo tại Pháp. Trước 1789, Công giáo tại Pháp (và nhiều nơi ở châu Âu) là quốc giáo với sự điều hành của Giáo hội. Giấy trắng mực đen cho thấy cuộc chia tay giữa Giáo hội và nhà nước: “Nguyên tắc của mọi chủ quyền về bản chất thuộc về quốc dân. Không một tập thể nào, cũng không một cá nhân nào được phép thực thi bất kỳ quyền lực nào mà không xuất phát trực tiếp từ quốc dân” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền tháng 8/1789, điều 3). Đường hướng này mở ra hàng loạt chính sách cách mạng thế tục một cách triệt để. Lúc đó Giáo hội phải đối diện với muôn vàn khó khăn mà tôi không thể kể hết ở đây. Dù sau đó Napoleon vào đầu thế kỷ 19 có ký hòa ước để khôi phục một phần hoạt động của Công giáo ở Pháp, nhưng cánh cửa tục hóa đã mở toang, nghĩa là tôn giáo phải lui vào hậu trường của bức màn chính trị.

Sang thế kỷ 19, trật tự thế tục đã hình thành. Giáo hội phản ứng rất thận trọng để có thể đồng hành với con người trong bối cảnh cụ thể. Lý do là cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc và các ý thức hệ thế tục (chủ nghĩa tự do, xã hội, cộng sản), vai trò minh nhiên của Giáo hội cũng bị thu hẹp. Ngay tại Ý, tiến trình thống nhất đất nước (Risorgimento) năm 1870 đã chinh phục luôn lãnh thổ Giáo hoàng (Papal States). Theo đó, nhiều vị giáo hoàng thời kỳ này lo ngại trật tự Kitô giáo truyền thống bị đe dọa nghiêm trọng. Tiêu biểu là Đức Piô IX, năm 1864 ban hành văn kiện nổi tiếng Syllabus Errorum (Bản liệt kê các sai lầm) kết án 80 quan điểm “sai lạc” của thời hiện đại. Tài liệu này bác bỏ nhiều ý niệm nền tảng của xã hội thế tục như: chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa tương đối luân lý, và đặc biệt phản đối quan điểm tách rời giáo quyền khỏi thế quyền cũng như việc giải phóng chính trị khỏi truyền thống quân chủ Công giáo[3]. Thời Đức Piô IX và kéo dài tới Đức Lêô XIII, Tòa thánh đã nỗ lực chống lại làn sóng tục hóa bằng cách củng cố đức tin giáo dân, lên án chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa xã hội vô thần. Bên cạnh đó, Giáo hội tìm cách thích nghi với một thế giới đã đổi thay. Chúng ta đã biết đến thông điệp Rerum Novarum[4] năm 1891 nổi tiếng của Đức Lêô XIII. Trong đó, vị Giáo hoàng này sẵn sàng bước vào những vấn đề của thế tục, của công nhân và của thời đại công nghiệp hóa.

Bước sang thế kỷ 20, tục hóa đã sản sinh ra những con người bị khủng hoảng niềm tin. Thoát khỏi hai cuộc thế chiến, nhiều nước đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật, đô thị hóa và kinh tế tiêu thụ. Tại châu Âu, tỷ lệ người đi lễ giảm sút nghiêm trọng sau các thập niên 1960–1970. Ơn gọi linh mục tu sĩ cũng giảm dần. Hiện tượng này có thể bị tác động bởi chủ nghĩa tiêu thụ và văn hóa, vốn là sản phẩm của phong trào tục hóa. Đặc biệt từ cuối thế kỷ 20, người ta cổ súy một lối sống chạy theo tiện nghi vật chất, nơi mà tiếng nói của Thiên Chúa không quan trọng nữa. Nói như Đức Phaolô VI, đức tin Kitô giáo giữa lòng xã hội hiện đại “luôn đứng trước nguy cơ bị nghẹt thở hoặc bị bỏ đói” bởi bầu khí tục hóa. Cụ thể ngài viết: “Liên kết với thứ tục hóa vô thần, những người chủ trương vô thần luôn đề nghị cho chúng ta những hình thức khác nhau. Chẳng hạn một nền văn minh tiêu thụ, nâng chủ nghĩa khoái lạc lên thành giá trị tối thượng, một ý muốn tham quyền thống trị, những kỳ thị đủ loại và còn biết bao khuynh hướng vô nhân đạo của thuyết nhân bản nói trên” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi, số 55). Có thể tóm những hậu quả này trong lời nhận xét của Đức Giáo hoàng Phanxicô: “Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ” (Evangelii Gaudium, số 2).

2. Phản ứng của Giáo hội Công giáo trước tục hóa

Sau nhiều năm lắng nghe, quan sát và suy tư, Giáo hội đã đổi hướng từ phòng thủ sang đối thoại. Công đồng Vatican II (1962–1965) mở ra một trang mới dưới sự dẫn dắt của các Giáo hoàng Gioan XXIII và Phaolô VI. Sau đó, Công giáo đã chọn một thái độ cởi mở và đối thoại hơn. Thay vì né tránh, các nghị phụ đã chủ trương “đọc các dấu chỉ thời đại” và “đối thoại với toàn thể nhân loại”. “Cách tốt nhất chính là thực hiện cuộc đối thoại với thế giới về những vấn đề đa dạng ấy, phải lấy ánh sáng Tin mừng để chiếu soi, và phải đem đến cho nhân loại những năng lực cứu rỗi mà chính Giáo hội, nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn, đã nhận được từ nơi Đấng Sáng Lập” (Gaudium et Spes, số 3). Đây là nỗi lực để Giáo hội: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô” (Gaudium et Spes, số 1). Nói chung Giáo hội tự ý thức mình gắn bó mật thiết với nhân loại và muốn đồng hành với thế giới, thay vì tách biệt hay đối nghịch.

Một đóng góp quan trọng khác của Công đồng Vatican II là khẳng định tự do tôn giáo như một quyền cơ bản của con người trong xã hội thế tục. Với văn kiện Dignitatis Humanae (Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo, 1965), Giáo hội tuyên bố rằng “con người có quyền tự do tôn giáo”, nghĩa là “không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù hành động đó là riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với người khác, trong những giới hạn chính đáng” (Dignitatis Humanae, số 2). Tuyên ngôn này lý luận rằng quyền tự do tôn giáo bắt nguồn từ phẩm giá con người, nên “được hướng dẫn bởi ý thức về bổn phận của con người. Cũng vậy, họ đòi hỏi phải có một giới hạn pháp lý đối với việc thực thi quyền bính của chính quyền để cho phạm vi tự do chân chính, dù thuộc cá nhân hay tập thể, không bị hạn hẹp quá đáng” (Dignitatis Humanae, số 1).

Song song với Gaudium et Spes và Dignitatis Humanae, Công đồng còn nhiều văn kiện khác gián tiếp đáp ứng thách đố tục hóa. Hiến chế Lumen Gentium tái nhấn mạnh rằng Giáo hội trước hết mang bản chất thiêng liêng, không tìm kiếm quyền lực trần thế. Trong khi đó, Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân mời gọi mỗi tín hữu thánh hóa trật tự trần thế, nghĩa là sống giữa đời và làm cho các thực tại trần thế thấm đẫm tinh thần Phúc âm. Giáo hội khuyến khích chúng ta: “Làm sao cho hành động của mình trong trần thế thực sự trở nên chứng từ về Đức Kitô và mang lại ơn cứu rỗi cho con người. Tính cách đặc thù của bậc giáo dân là sống giữa thế gian và giữa các công việc trần thế, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi để thực thi việc tông đồ với tinh thần Kitô hữu như chất men thấm vào thế giới” (Apostolicam Actuositatem, số 2).

Như vậy, từ Công đồng Vatican II đến nay, thay vì xem hiện tượng tục hóa đơn thuần là mối nguy, Giáo hội tìm cách đọc ra những dấu chỉ tích cực trong đó như: khát vọng tự do, nhân phẩm, khoa học kỹ thuật tiến bộ, để thích nghi loan báo Tin mừng. Gần đây nhất, chúng ta có thể nhớ đến thời Đức Giáo hoàng Phanxicô. Ngài bận tâm về một thế giới tục hóa và kỹ thuật số lại được nhấn mạnh dưới góc độ mục vụ thực tiễn. Ngay tông huấn đầu tiên Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin mừng, 2013), ngài cho rằng: “Tiến trình tục hoá có khuynh hướng giản lược đức tin và Hội Thánh vào lãnh vực cá nhân và riêng tư. Hơn nữa, bằng việc phủ nhận cái siêu việt, nó làm cho đạo đức ngày càng xuống cấp, ý thức của cá nhân và tập thể về tội lỗi suy yếu dần, và chủ nghĩa tương đối ngày càng gia tăng. Tình trạng này dẫn đến một sự mất phương hướng chung, đặc biệt ở lứa tuổi thiếu niên và thanh niên vốn là tuổi rất dễ bị tổn thương do sự thay đổi” (Evangelii Gaudium, số 64).

Như vậy Giáo hội Công giáo ngày nay nhìn nhận đây là môi trường mới cho sứ mạng truyền giáo. Nếu ai đó cho rằng chúng ta đang sống ở một thế giới hậu Kitô giáo, thì với sứ mạng loan báo Tin mừng, chúng ta cũng cần bắt đầu lại như thời kỳ tiền Kitô giáo. Chắc độc giả cũng đồng ý rằng Tin mừng có sức đánh động tâm hồn con người mọi thời, kể cả con người thời kỹ thuật số. Vậy vấn đề là làm sao để loan báo Tin mừng hiệu quả và thuyết phục cho con người thời nay? Một trong những cách là phải tìm ra ngôn ngữ đối thoại phù hợp với người chịu ảnh hưởng não trạng khoa học kỹ trị, tiêu thụ hoặc vô thần. Đây chính là nỗ lực hội nhập văn hóa mà Giáo hội hằng theo đuổi.

3. Định hướng mục vụ trong thời đại tục hóa

Lời mời của Chúa Giêsu vẫn luôn đúng cho hoàn cảnh này: “Hãy ra chỗ nước sâu mà thả lưới” (Lc 5,4). Đứng trước thách thức nhưng cũng là cơ hội của thời đại, với thiển ý của tôi, Giáo hội chúng ta cần có những định hướng mục vụ và truyền giáo thích hợp. Thực tế chúng ta đã có và đang được thực thi một cách tốt đẹp. Có lẽ nhiều người đã biết, nhưng cho phép tôi liệt kê vài định hướng nổi bật:

– Đặt trọng tâm vào cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Kitô. Trong một thế giới ồn ào và dửng dưng với tôn giáo, việc giúp con người nhận ra niềm vui gặp gỡ Chúa Giêsu là thiết yếu. Trước khi loan báo Tin mừng, Đức Phanxicô viết: “Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình. Tôi xin tất cả anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày.” (Evangelii Gaudium, số 3). Trong cuộc gặp gỡ thần linh này, mục vụ hôm nay cần nhấn mạnh khía cạnh trải nghiệm đức tin sống động hơn là chỉ truyền thụ giáo thuyết. Giúp người trẻ hay người xa Chúa cảm nghiệm được tình yêu và sự hiện diện của Chúa qua cầu nguyện, các khóa tĩnh tâm, sinh hoạt giới trẻ, v.v., là điều quan trọng nhất. Vì khi đó, họ sẽ dần vượt qua được sự trống rỗng do văn hóa thế tục gây ra.

– Hội nhập văn hóa và đối thoại với xã hội. Chúng ta nên dùng ngôn ngữ của con người thời đại, tức là hiểu những vấn đề, khát vọng của họ để tìm cách đồng hành. Ước gì chúng ta luôn xây dựng thiện chí và hiểu biết lẫn nhau, thay vì đối đầu. Giáo hội có thể tham gia vào những diễn đàn văn hóa, khoa học, môi trường và công bằng xã hội. Thái độ cởi mở, tôn trọng tự do lương tâm và cổ vũ các giá trị nhân bản phổ quát sẽ giúp hình ảnh Giáo hội gần gũi hơn với xã hội dân sự vốn đa nguyên. Tôi tin rằng một khi chúng ta biết kín múc những thành quả của nhân loại, thì mới có thể hội nhập vào lòng thế giới và biến đổi thế giới từ bên trong. Hãy can đảm “vào cửa người ta và ra cửa của mình”.

– Tân Phúc Âm hóa qua chứng tá đời sống. Liều thuốc này hiệu nghiệm trực tiếp đến bệnh thờ ơ tôn giáo. Qua các hoạt động từ thiện, dấn thân bảo vệ sự sống, chăm lo người nghèo, cổ võ công bằng, Giáo hội thể hiện tính nhân văn của Tin mừng và đánh động lương tâm ngay cả nơi những người không có đạo. Những năm Covid-19 đã cho thấy chúng ta làm rất tốt. Nếu người Công giáo sống trọn các giá trị Tin mừng, trở nên “muối men” giữa đời, thì họ góp phần bồi đắp nền “văn minh tình thương” mà người thế tục cũng tán thành.

– Mục vụ giới trẻ và truyền giáo trên không gian mạng. Ở đâu có con người, nơi đấy cần loan báo Tin mừng. Thời đại kỹ thuật số mở ra một “lục địa” mới, gồm 5 châu lục cộng lại. Đây vừa là thách đố với bao cám dỗ, luồng thông tin độc hại, vừa là cơ hội truyền giáo tuyệt vời. Giáo hội cần tích cực hiện diện trên internet, mạng xã hội, tận dụng các phương tiện truyền thông mới để loan báo sứ điệp Tin mừng cách sáng tạo. Trong bối cảnh tục hóa, khi người ta ngại đến nhà thờ, thì Giáo hội “đi ra” đến với họ qua màn hình nhỏ. Dù vậy, không chỉ dừng ở sự hiện diện truyền thông, quan trọng hơn là xây dựng các cộng đồng đức tin thực sự cho giới trẻ. Chính nơi đó, họ tìm thấy tình bạn, ý nghĩa và sự nâng đỡ. Các nhóm học hỏi, sinh hoạt, công tác bác ái cần được làm mới cho phù hợp tâm lý giới trẻ thời nay, để họ không cảm thấy đức tin là lỗi thời.

– Canh tân việc giáo dục đức tin. Sau cùng, một định hướng mang tính nền tảng là canh tân việc dạy giáo lý và đào tạo nhân sự mục vụ. Trong môi trường tục hóa, giáo lý viên, linh mục, tu sĩ và cả những phụ huynh cần trang bị một kiến thức đức tin tốt hơn. Đây là thách đố lớn. Tuy nhiên, nếu nắm bắt những hiểu biết liên ngành từ tâm lý, xã hội đến khoa học phổ thông, chúng ta dễ đối thoại với người đương thời. Một tu sĩ linh mục, hoặc một giáo dân được đào luyện kỹ càng, sẽ tự tin hơn khi ra “chợ đời” làm chứng cho Tin mừng. Nhớ là một tay nắm lấy Thiên Chúa, và tay kia cầm tờ nhật báo!

Kết luận

Đến đây hy vọng độc giả đã hiểu hơn về hiện tượng tục hóa trong Giáo hội. Hiện tượng tục hóa là một thực tại không thể đảo ngược của thế giới chúng ta. Nhưng đối với niềm tin Kitô giáo, đó không phải dấu chấm hết, mà có thể là khởi đầu cho một giai đoạn thanh luyện và tăng trưởng mới. Sự thật là con người thời đại nào cũng cần đến ơn cứu độ và tình yêu. Chỉ Thiên Chúa thỏa lấp ước nguyện này một cách trọn vẹn. Do đó, Giáo hội trong đó có chúng ta, luôn ý thức bổn phận rao giảng ơn cứu độ cho con người. Tin mừng vẫn luôn mới mẻ và có khả năng đáp ứng những khát vọng sâu xa của tâm hồn con người, ngay cả với thời tục hóa.

Trong bối cảnh tục hóa cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và toàn cầu hóa, Giáo hội được mời gọi can đảm ra khơi một lần nữa. Ở châu Âu, Giáo hội nhấn mạnh đến “Tân Phúc âm hóa” (New Evangelization). Tại Việt Nam cũng vậy, nghĩa là chúng ta cần làm sao để cho nhiều người biết đến Thiên Chúa. Bằng sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và kho tàng tri thức của Giáo hội, chúng ta có thể tìm được những “con đường mới” cho hành trình phía trước. Thay vì sợ hãi trước ảnh hưởng của phong trào tục hóa, ước gì chúng ta vẫn là những người loan báo tin vui của Chúa Giêsu cho con người thời nay, ở đây và lúc này.

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Nguồn: WHĐ (23.9.2025)

__________

[1] Lm. Athanasio Nguyễn Quốc Lâm, Đào luyện tri thức trong bối cảnh tục hoá của xã hội hiện đại, ngày 03/9/2025, tại https://www.youtube.com/watch?v=oc6iGpeVHYM

[2] Rabbi Jonathan Sacks đã xác định bốn giai đoạn thế tục hóa, mỗi giai đoạn gắn liền với một thế kỷ từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20: thế kỷ 17 chứng kiến sự thế tục hóa của tri thức (thông qua khoa học), thế kỷ 18 là sự thế tục hóa của quyền lực (thông qua các cuộc cách mạng tách tôn giáo ra khỏi nhà nước), thế kỷ 19 là sự thế tục hóa của văn hóa (thông qua những lựa chọn thay thế cho các thiết chế tôn giáo), và thế kỷ 20 là sự thế tục hóa của luân lý (rời xa các nguyên tắc đạo đức Do Thái – Kitô giáo). Sacks lập luận rằng xu hướng này là không bền vững và một sự đảo ngược, hay giải-thế tục hóa, sẽ xảy ra khi các xã hội đánh mất những điểm tựa đạo đức truyền thống của mình. (Theo Google Gemini).

[3] Đức Giáo hoàng Piô IX, Syllabus Errorum, (1864), tại https://www.papalencyclicals.net/pius09/p9syll.htm

[4] Thông điệp Rerum Novarum – (Tân Sự) của Đức Giáo hoàng Lêô XIII về hoàn cảnh của giới Công nhân, ngày 04/01/2024, tại https://ubclhb.com/tai-lieu/su-diep-duc-giao-hoang/thong-diep-rerum-novarum-tan-sucua-duc-giao-hoang-le-o-xiii-ve-hoan-canh-cua-gioi-cong-nhan