Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
27b Bấy giờ, vị thượng tế hỏi các Tông Đồ rằng : 28 “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi !” 29 Bấy giờ ông Phê-rô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng : “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. 30 Đức Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi ; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, 31 và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. 32 Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.”
40b Bấy giờ, họ cho gọi các Tông Đồ lại và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giê-su, rồi thả các ông ra. 41 Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.
Đ.Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt.
2Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt,
không để quân thù đắc chí nhạo cười con.4Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên,
tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống.
Đ.Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt.
5Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa,
cảm tạ thánh danh Người.6Người nổi giận, giận trong giây lát,
nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống,
hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.
Đ.Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt.
11Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con,
lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ.12aKhúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu.13bLạy Chúa là Thiên Chúa con thờ,
xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.
Đ.Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt.
Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền.
Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.
11 Tôi là Gio-an, tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. 12 Các vị lớn tiếng hô :
“Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận
phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh,
danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.”
13 Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô :
“Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên
lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng
đến muôn thuở muôn đời !”
14 Bốn Con Vật thưa : “A-men.” Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Đức Ki-tô nay đã phục sinh,
chính Người đã tạo thành vạn vật
và xót thương cứu độ loài người. Ha-lê-lui-a.

Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho môn đệ ; rồi cá, Người cũng làm như vậy.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
1 Khi ấy, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông : “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp : “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông : “Này các chú, không có gì ăn ư ?” Các ông trả lời : “Thưa không.” 6 Người bảo các ông : “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô : “Chúa đó !” Vừa nghe nói “Chúa đó !”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10 Đức Giê-su bảo các ông : “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” 11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12 Đức Giê-su nói : “Anh em đến mà ăn !” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai ?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông ; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
15 Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không ?” Ông đáp : “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông : “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” 16 Người lại hỏi : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không ?” Ông đáp : “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” Người nói : “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” 17 Người hỏi lần thứ ba : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có thương mến Thầy không ?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần : “Anh có thương mến Thầy không ?” Ông đáp : “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự ; Thầy biết con thương mến Thầy.” Đức Giê-su bảo : “Hãy chăm sóc chiên của Thầy. 18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết : lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” 19 Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông : “Hãy theo Thầy.”
(Nguồn: ktcgkpv.org)
—————————-
Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Sách Tông đồ Công vụ được gọi là “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”. Nội dung của cuốn sách ghi lại những sinh hoạt và sự phát triển của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi. Khi đọc Sách Tông đồ Công vụ, chúng ta ngạc nhiên trước sự phát triển nhanh chóng của cộng đoàn Ki-tô hữu. Một tôn giáo lúc ban đầu chỉ có một nhóm nhỏ, nhưng đã nhanh chóng phát triển. Sức sống đức tin mãnh liệt kỳ diệu, vì cộng đoàn này bị bách hại “ngay trong trứng nước”. Tôn giáo mới này được thiết lập do một vị thủ lãnh đã bị người ta chế nhạo và giết chết một cách nhục nhã là Đức Giê-su. Ấy thế mà các đồ đệ lại tự hào về vị thủ lãnh của mình, và sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ để làm chứng về Người. Cùng với các tông đồ, thánh Phê-rô quả quyết một điều: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”. Khi nói những điều này, các ông vững một niềm tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, và thày thượng tế cũng chỉ là người phàm hạng thứ yếu. Cần lưu ý thượng tế trong xã hội Do Thái thời đó là vị lãnh đạo tối cao của người Do Thái. Ông có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề có liên quan đến truyền thống và lề luật của dân tộc. Đó là một đặc quyền đế quốc La-mã cho phép. Đương nhiên đối với trường hợp kết án tử hình, thì phải trình lên nhà cầm quyền La-mã. Như chúng ta thấy, trong trường hợp Chúa Giê-su, sau khi Thượng Hội đồng quyết định, người Do Thái đã dẫn Chúa Giê-su đến với Phi-la-tô theo luật định. Đối diện với một hệ thống chính trị và cầm quyền như thế, Phê-rô tỏ ra rất can đảm. Ông tin những gì ông trình bày về Đức Giê-su là lệnh truyền đến từ Thiên Chúa, chứ không phải người phàm.
Trong cuộc đối chất nảy lửa này, một câu nói của vị thượng tế đã cho thấy sự phát triển nhanh chóng của cộng đoàn Ki-tô hữu. Ông nói: “Các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông!”. Sự phát triển của cộng đoàn Ki-tô hữu quả thật đã làm cho những người cầm quyền đạo cũng như đời lo sợ. Người Do Thái nghĩ rằng giết ông Giê-su thì mọi chuyện sẽ ổn thỏa và không còn ai đi theo ông ấy nữa, nhưng thực tế đã ngược lại. Vị thượng tế vẫn còn ám ảnh về cái chết của Chúa Giê-su, nên ông nói với các tông đồ: “Các ông còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!”. Trước những đe dọa này, Phê-rô và các tông đồ vẫn thản nhiên. Không những thế, khi bị phạt đánh đòn, lòng các ông lại “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”.
Không chỉ các tông đồ, mà những tín hữu tiên khởi đều là những chứng nhân về Đức Giê-su. Họ tin chắc chắn Người đã sống lại và đang hiện diện giữa cộng đoàn. Phê-rô minh chứng trước Thượng Hội đồng và khẳng định: “Những gì xảy ra đối với Chúa Giê-su thành Na-gia-rét là phù hợp với những tiên báo của Cựu ước, và chính Thiên Chúa đã làm cho Đức Giê-su trỗi dậy từ cõi chết. Chính niềm tin này đã thúc đẩy các Ki-tô hữu sống đạo đức, chuyên cần cầu nguyện và làm việc bác ái để chứng minh Đức Giê-su là Đấng Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa.
Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra gặp gỡ các tông đồ. Qua trình thuật này, tác giả Gio-an muốn nói với chúng ta: Đấng Phục sinh vẫn đồng hành với những ai tin vào Người. Tuy không nhìn thấy Người bằng con mắt thể lý, nhưng người vẫn hiện diện thiêng liêng vô hình giữa chúng ta. Mẻ cá kỳ diệu đã chứng minh quyền năng của Đức Giê-su. Trong trình thuật này, Phê-rô luôn là người đại diện cho các tông đồ. Từ việc ông rủ các anh em đi đánh cá, đến sự nhạy bén phát hiện ra người lạ mặt là Chúa Giê-su, và sau đó là việc Chúa Giê-su trao cho ông quyền lãnh đạo chăm sóc đàn chiên mà Người đã quy tụ. Lời chứng về Chúa Giê-su Phục sinh ở đây cũng là lời chứng của một tập thể, đó là các tông đồ. Vì thế, chứng từ của các ông luôn có tính thuyết phục. con số 153 con cá không phải là điều ngẫu nhiên, mà đó là tất cả các chủng loại cá dưới biển mà tri thức đương thời đã tổng hợp và ghi nhận. Từ hai mươi thế kỷ, Giáo Hội là đàn chiên của Chúa, luôn phát triển cho đến ngày hôm nay. Mặc dù đây có có những vấp phạm và gương mù gương xấu, nhưng đàn chiên mà Chúa Giê-su trao phó cho Phê-rô vẫn đang hướng về Quê Trời, bất chấp mọi phong ba bão tố của thời cuộc.
Mẻ cá lạ bên bờ hồ Ti-bê-ri-a năm xưa khẳng định Chúa Giê-su là Đấng Cứu độ, và cái chết của Người, thay vì được nhìn như một thất bại nặng nề, lại như một chiến thắng vinh quang. Lời tung hô của các thiên thần trên trời đã chứng minh điều đó: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” (Bài đọc II). Quả thật, Thiên Chúa đã trao mọi quyền năng trên trời dưới đất cho Con của Ngài là Đức Giê-su, vì Đức Giê-su đã hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, Ki-tô hữu được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm Đức Giê-su, tức là Giáo Hội. Ở mọi nơi mọi thời và mọi nền văn hóa, cộng đoàn những người tin vào Chúa Giê-su luôn phải là chứng nhân cho Người. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ….” (x. Mt 28,16-20), Đó là sứ mạng Đấng Phục sinh trao phó cho chúng ta.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
—————————
Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh
GƯƠNG MẶT LÃNH ĐẠO CỦA THÁNH PHÊRÔ
Sách Công Vụ Tông Đồ và Tin Mừng Gioan ngày Chúa Nhật thứ 3 Phục sinh nhất loạt đặt lên hàng đầu gương mặt của thánh tông đồ Phêrô. Chính thánh Phêrô đã biện luận trước Thượng Hội đồng, toà án của người Do thái: Ngài khẳng khái nói “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29) . Và mạnh dạn làm chứng về việc Chúa sống lại từ cõi chết, rồi mặc dầu bị đánh đòn, các tông đồ “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu nhục vì danh Chúa Giêsu” (Bài đọc 1. Cv 5, 27-32.40b-41).
Thánh Phêrô đã biến hoàn cảnh bất lợi trở nên dịp thuận lợi để rao giảng Tin Mừng về Chúa sống lại, đúng như thánh Âu-tinh đã suy tư: “Thiên Chúa dùng những đường công để viết nên hàng chữ thẳng” ( Dieu se sert des courbes pour écrire des lignes droites). Mọi hoàn cảnh đều tốt để loan báo Tin Mừng. Thiên Chúa rút ra sự lành từ sự dữ là thế đó, một tương kế tựu kế. Trong cơn khủng hoảng rất có cơ may con người tạo ra một lối sống mới.
Còn Tin Mừng Gioan tường thuật chính thánh Phêrô nảy ra ý định đi đánh cá: Ngài là người đầu tiên lên tàu, kéo theo các anh em khác, nhưng ngài cũng là người đầu tiên nhảy xuống biển để đến với Đức Giêsu. Và cũng chính ngài ba lần tuyên xưng tình yêu và sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Sau mỗi lần trả lời con yêu mến Thầy, Đức Giêsu trao cho thánh Phêrô nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Thầy: “Hãy chăn sóc chiên của Thầy” (Bài Tin Mừng Ga 21, 1-19). Người lãnh đạo là người cưu mang kế hoạch và hướng dẫn anh em: trong trình thuật nầy thánh Phêrô đề xuất đi đánh cá, người đấu tiên lên tàu và người đầu tiên nhảy đến gặp Chúa Giêsu.
Ba lần chối Thầy, ba lần khẳng định lại lập trường yêu mến, ba lần được tha thứ, ba lần được Chúa tái xác nhận nhiệm vụ chăn chiên mà Người đã giao cho ông. Việc Chúa đã khởi sự, Người hoàn tất đến cùng cho dù con người có yếu đuối và hay thay đổi vì bất tín bất trung. Ơn gọi từ trời cao với sứ mệnh vượt quá sức phàm nhân, Thiên Chúa biết điều đó, Người đón nhận con người như họ “là” và hun đúc con người trở nên điều họ “phải”. Thiên Chúa trung tín trong lựa chọn của mình, và Người cũng để cho con người có cơ may sửa đổi lầm lỗi của mình trong kiên nhẫn và kín đáo. Thật vậy “Không phải con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn con. Không phải con đã yêu Thầy nhưng chính Thầy đã yêu con”, lời một bài hát ngày thụ phong linh mục. Khi tha thứ cho Phêrô Chúa Giêsu tái khẳng định sự lựa chọn Phêrô đứng đầu Giáo hội, Người không thay đổi lập trường cho dù Phêrô yếu đuối và sa ngã.
Trở lại với Thượng Hội Đồng, khi các tông đồ bị điệu ra trước vành móng ngựa, đó là thời cơ thuận lợi đối với các tông đồ, thánh Phêrô long trọng lên tiếng tuyên xưng và làm chứng cho Đức Giêsu đã chết nay sống lại. Dĩ nhiên là nhà cầm quyền Do thái không thích những gì bất trắc và những gì không được ghi chép trong Luật lệ của họ, họ cảm thấy đổ vỡ khi nghĩ rằng vụ án “Giêsu Nadarét” đã kết thúc, chết là hết chuyện, nhưng nay Danh Đức Giêsu lại vang dội khắp cả Giêrusalem.
Chính nơi bản thân của các Tông đồ, Đức Giêsu lại tiếp tục lên tiếng, chất vấn, quấy động trật tự xã hội và tâm linh. Và rồi lịch sử cuộc đời bị bách hại của Đức Giêsu được lặp lại nơi các tông đồ, người ta bắt bớ, tống ngục, đánh đòn, ngăm cấm rồi lại thả ra. Lịch sử cuộc đời Đức Giêsu được sống động nơi lịch sử các Giáo hội. Đức Giêsu vẫn tiếp tục lên tiếng trong Giáo Hội và qua nhân sự của Giáo Hội.
Thầy trò đi chung cùng một con đường, con đường bắt bớ và khổ nạn. Hình phạt không đáp ứng nguyện vọng đàn áp, trái lại gây hậu quả trái ngược, thay vì làm cho im tiếng, các Tông đồ lại có dịp nói công khai và minh nhiên làm chứng mạnh mẽ việc Đức Giêsu chết và sống lại. Niềm hãnh diện và hiên ngang lộ rõ trên gương mặt khi các ngài bước “ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu” (Cv 5, 41).
Thật trái ngược biết bao trước sự nghiêm cấm, đòn vọt của nhà cầm quyền tôn giáo Do thái thời đó và sự bình tĩnh tự tin cùng với lập luận chắc nịch của thánh Phêrô: “ Đức Giêsu bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy … chúng tôi xin làm chứng” (c. 30-32). Sức mạnh đàn áp không cự lại được vinh quang phục sinh. Chiến thắng vang dội của Chúa Phục Sinh đã khai mào một thế giới mới. Thật lạ lùng thay ! “Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu. Áo tang chế, thành hoan lạc niềm vui” (Tv 29, 12a). “Việc Chúa làm cho ta ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 103)
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Chúa đã lấy cái chết để biến đổi thành hành động tột cùng của tình yêu, xin cho con cũng biết chấp nhận đau khổ nho nhỏ trong cuộc đời làm hy lễ dâng lên cho Thiên Chúa. Amen Allêluia.
(Lm. Luy Nguyễn Quang Vinh, Gx Đức An, Pleiku)
___________________________________
Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên
TÌNH YÊU MẾN
Suy niệm
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ đã hai lần gặp được Chúa bằng xương bằng thịt (x. Ga 20. 19.26), nhưng xem ra quá ngắn ngủi. Lòng các ông cũng còn bối rối và lo sợ, nên chưa đủ mạnh để thay đổi đời mình. Thầy không còn bên cạnh như trước nữa, nên họ thấy trống vắng, buồn tẻ và cuộc sống hằng ngày dường như vô vị, không còn ý nghĩa. Trong tâm trạng đó, họ muốn trở về với đời sống của dân thuyền chài, trở về với những gì quen thuộc ngày xưa để lấp đầy khoảng trống mênh mông. Trong tâm trạng như thế, nên khi Phêrô gợi ý đi đánh cá là họ đồng thanh hưởng ứng ngay.
Các ông đã vất vả suốt đêm nhưng không bắt được con cá nào. Vào buổi bình minh của ngày mới, giữa lúc các ông mệt mỏi, buồn chán, thì Chúa Giêsu xuất hiện trên bờ hồ, nhưng họ không nhận ra. Ngài bảo cho các ông cứ thả lưới bên phải mạn thuyền. Họ đã làm như thế và kết quả là mẻ lưới đầy cá. Thấy việc lạ vừa xảy ra, người môn đệ thân yêu đã tinh ý nhận ra là chính Chúa Giêsu, và nói với Phêrô: “Chúa đó”. Ông liền nhảy xuống biển, bơi ngay vào bờ để gặp Chúa.
Khi đưa thuyền vào bờ, các ông thấy Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bánh và cá nướng. Chúa Phục Sinh dọn bữa sáng cho các ông. Bầu khí thật ấm cúng và chan hòa tình nghĩa Thầy trò. Khung cảnh bữa ăn gợi lên bầu khí của thánh lễ, cũng Chính Chúa dọn bữa ăn cho chúng ta, không phải của ăn vật chất mà là chính Lời Ngài và Mình Ngài. Hội Thánh vừa lan rộng vừa tập trung nơi thánh lễ, để kín múc và trao ban ơn phúc. Ðó là nhịp thở đều đặn làm nên sức sống cho Hội Thánh.
Hội Thánh ấy giờ đây được giao cho Simon Phêrô, nhưng trước hết ông phải trải qua một cuộc sát hạch: “Này anh Simon… anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không ?”. Câu hỏi thật khác thường khi giao sứ mạng, Chúa Giêsu không đặt vấn đề khả năng lãnh đạo hay tầm nhìn sâu rộng, nhưng là tình yêu mến. Có lẽ ông rất ngượng ngùng vì mới chối Thầy ba lần, mà Ngài lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả thật khó khăn. Chắc chắn là ông yêu mến Thầy rồi, nhưng Thầy lại thích cái “yêu mến hơn”.
Tình yêu là như thế, chỉ khi yêu “hơn”, người ta mới dám sống “hơn” cho người mình yêu. Nhiệm vụ càng cao thì phải yêu mến càng nhiều. Bởi ai cũng rất sợ những người làm to mà trái tim lại quá nhỏ. Ngài hỏi Phêrô đến ba lần về tình yêu mến, như muốn xóa sạch mọi ký ức của ông về việc chối Ngài ba lần, để ông đừng tự phụ dựa vào sức riêng của mình nữa, mà từ đây hãy dựa vào chính Ngài. Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng:“Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.
Thánh Phaolô cho thấy, không có tình yêu mến thì mọi hy sinh và công lao sẽ trở thành tro bụi (x. Cr 13,1-7). Nó khiến ta lệch lạc ngay trong cách sống hằng ngày: không có tình yêu mến thì bổn phận khiến ta dễ nóng giận; trách nhiệm đẩy ta tới chỗ bất nhã; công bằng làm cho ta đâm ra tàn nhẫn; sự thật biến ta thành kẻ ưa soi mói; khôn ngoan dẫn ta tới chỗ láu cá; sự đon đả biến ta thành kẻ giả dối; hiểu biết đẩy ta trở thành kẻ cố chấp; quyền bính khiến ta trở thành kẻ áp bức; danh thơm tiếng tốt làm ta trở thành kẻ kiêu ngạo; của cải làm ta trở nên tham lam; lòng tin biến ta thành kẻ cuồng tín.
Không có tình yêu mến, trên đời này ta không là gì cả! Nhưng với tình yêu mến, ta sẽ trở nên tất cả. Chỉ có tình yêu mới làm nên những điều nhiệm lạ chứ không phải tài năng hay tri thức. Thế giới này cũng chỉ được thu phục bởi tình yêu. Cha thánh Vianey cũng đã khẳng định: “Thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu mến!”.
Hôm nay Đức Kitô Phục Sinh cũng hỏi mỗi người chúng ta xem có thật lòng yêu mến Chúa không? Trả lời bằng môi miệng thì dễ quá, mà phải trả lời bằng chính cuộc sống của mình: sống hết mình cho Chúa và tha nhân. Trong xã hội này chẳng ai tin vào lời chúng ta nói, người ta chỉ tin vào việc chúng ta làm. Người ta cũng chẳng tin vào việc chúng ta đi lễ, mà chỉ tin khi cuộc đời ta biến thành của lễ, nghĩa là thấy được sự dấn thân phục vụ của chúng ta để đem lại những gì tốt đẹp cho con người và xã hội hôm nay. Thánh lễ nối dài là như thế, nghĩa là Chúa tiếp tục tỏ mình và hiến mình cho nhân loại qua chính đời sống quên mình và hy sinh của chúng ta mỗi ngày.
Cầu nguyện
Lạy Cha là Thiên Chúa của Tình Yêu!
Với tình yêu thì không gì là thiếu,
tình yêu sẽ làm nên điều huyền diệu,
cho con thấy những chứng tích cao siêu.
Chính tình yêu là nguồn mạch sự sống,
khơi sáng mọi hoạt động của nhân trần.
tạo ý nghĩa và giá trị nhân sinh,
là biểu hiện cao vời của nhân tính.
Con vẫn ham thích làm điều lớn lao,
và cứ tưởng làm được thế là cao,
nhưng thiếu tình yêu thảy đều hư ảo,
tội lỗi cũng là vì thiếu tình yêu,
lo chạy theo những dự định của mình,
mà không theo chương trình của Thiên Chúa,
Khi Chúa đặt Phê-rô đứng làm đầu,
Chúa không đòi tài cao hay đức trọng,
mà chỉ cần một lòng mến thâm sâu,
là cốt lõi làm nên sự nhiệm mầu,
vì mọi sự là do quyền năng Chúa,
chứ không phải sức lực của con người.
Xin cho con luôn yêu Chúa hết lòng,
để phục vụ với tính cách khiêm nhu,
để ứng xử với tâm hồn cao thượng,
để bức phá giới hạn của đời thường,
và tiến đến vô hạn của tình thương,
là niềm vui hạnh phúc cõi thiên đường. Amen.
Lm. Thái Nguyên
______________________________