Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc và giải thích sách Luật.
Bài trích sách Nơ-khe-mi-a.
2 Hôm ấy, ông Ét-ra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. 3 Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật.
4a Kinh sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này. 5 Ông Ét-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy. 6 Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng : “A-men ! A-men !” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa. 8 Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc.
9 Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng : “Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc.” Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. 10 Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng : “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon, và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em.”
Đ.Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống.
8Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện,
bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý Chúa thật là vững chắc,
cho người dại nên khôn.
Đ.Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống.
9Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng,
làm hoan hỷ cõi lòng.
Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch,
cho đôi mắt rạng ngời.
Đ.Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống.
10Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng,
tồn tại đến muôn đời.
Quyết định Chúa phù hợp chân lý,
hết thảy đều công minh.
Đ.Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống.
15Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn,
là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui nhận
bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa,
và bao tiếng lòng con thầm thĩ
mong được thấu đến Ngài.
Đ.Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống.
Anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận.
Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
12 Thưa anh em, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. 13 Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
14 Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi. 15 Giả như chân có nói : “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể”, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 16 Giả như tai có nói : “Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể”, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 17 Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe ? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi ?
18 Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. 19 Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được ? 20 Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. 21 Vậy mắt không có thể bảo tay : “Tao không cần đến mày” ; đầu cũng không thể bảo hai chân : “Tao không cần chúng mày.”
22 Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất ; 23 và những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. 24 Còn những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. 25 Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. 26 Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.
27 Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. 28 Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. 29 Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao ? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, 30 ai cũng được ơn chữa bệnh sao ? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao ?
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha. Ha-lê-lui-a.

Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.
Khởi đầu Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
11 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. 2 Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. 3 Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, 4 mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc.
414 Khi ấy, được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. 15 Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.
16 Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người đã được dưỡng dục. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng : 18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Chúa.
20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với họ : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
(Nguồn: ktcgkpv.org)
—————————-
Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Ngày 30-9-2019, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ấn định, Chúa Nhật thứ ba của mùa Thường niên là Chúa Nhật Lời Chúa. Mục đích của Đức Thánh Cha là giúp các tín hữu ý thức tầm quan trọng của việc đọc và suy niệm Lời Chúa. Đức Thánh Cha đã trích lời Thánh Giê-rô-ni-mô: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô”. Và thật là một trùng hợp có ý nghĩa, vì Chúa Nhật hôm nay, Bài đọc I và bài Tin Mừng đều giới thiệu với chúng ta về việc loan báo Lời Chúa. Hai sự kiện ở hai thời điểm lịch sử khác nhau, nhưng đều mang một thông điệp, đó là hãy lắng nghe Lời Chúa và hãy trở nên những ngôn sứ để loan báo Lời của Ngài.
Sách Nơ-khe-mi-a là một cuốn sách nằm trong Kinh Thánh Cựu Ước. Sách gồm có 13 chương, không rõ tác giả là ai. Thời gian viết vào khoảng năm 440-350 TCN, thời gian được tường thuật trong sách vào khoảng năm 445-425 TCN. Nhân vật chính cũng là tên của cuốn sách này. Ông là người nỗ lực xây lại tường thành và Đền thờ Giê-ru-sa-lem sau khi từ nơi lưu đày trở về. Công việc này vô cùng khó khăn, vừa do dân ngoại Sa-ma-ri-a âm mưu chống phá, vừa do một số người Do Thái nản chí trước khó khăn. Tuy vậy, Nơ-khê-mi-a đã hoàn thành bức tường thành và ông tổ chức khánh thành trọng thể. Nghi thức chính là việc đọc sách Luật, do thầy tư tế Ét-ra thực hiện. Nghi thức này diễn ra trong bảy ngày, và tường thuật của Bài đọc I chúng ta nghe hôm nay là ngày cuối cùng. Có thể nói, sự kiện này là sự hồi sinh của dân tộc Do Thái và cũng là của Đạo Do Thái, sau gần 50 năm sống cảnh lưu đày xa quê hương. Dân chúng vừa than khóc vì tội lỗi quá khứ, vừa hoan hỷ vui mừng vì đã đến thời dân tộc được phục hưng.
Trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca, hình ảnh thầy tư tế Ét-ra đọc sách tại Giê-ru-sa-lem năm xưa, nay người dân Na-da-rét lại được chứng kiến. Nhân một chuyến về thăm quê hương, Đức Giê-su đã vào Hội đường và đọc đoạn sách I-sai-a trước đó khoảng bảy thế kỷ, với nội dung nói về sứ vụ của vị ngôn sứ được Chúa xức dầu và sai đi. Nếu Ét-ra và Nơ-khe-mi-a tuyên bố thời hồi sinh của Đạo Do Thái sau lưu đày, thì Đức Giê-su lại khẳng định: một kỷ nguyên mới đã được khai mở. Đó là kỷ nguyên của thời thiên sai. Người đến trần gian để công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Người khẳng định với thế giới: Thiên Chúa yêu thương con người, và Ngài đã sai Con Một đến trần gian, để quảng diễn tình yêu vô bờ ấy. Khi tuyên bố với những ngươi đồng hương: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Đức Giê-su khẳng định: thời của ân sủng đã đến, và những ai thành tâm thiện chí sẽ được đón nhận muôn vàn ân huệ của Thiên Chúa.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” Nhờ bí tích Thanh tẩy, mỗi Ki-tô hữu cũng có thể áp dụng những lời này cho bản thân, vì mỗi chúng ta đã đều được xức dầu và mỗi chúng ta đều là ngôn sứ. Nơi mỗi chúng ta đều có Thần Khí hoạt động và chúng ta đều được sai lên đường đến với những anh chị em đồng loại, để nói với họ: Thiên Chúa yêu thương con người. Thánh Phao-lô diễn tả hoạt động của Thần Khí nơi Giáo Hội qua hình ảnh một thân thể bao gồm nhiều chi thể. Không có chi thể nào là hèn kém và bị coi thường. Đó là hình ảnh cộng đoàn đức tin. Chính Thần Khí hay Chúa Thánh Thần nối kết mọi thành viên để trở nên một thân thể, luôn hiệp thông và thăng tiến. Linh dược làm cho cơ thể là Giáo Hội được khỏe mạnh, chính là Chúa Thánh Thần. Ngài ngự trong mỗi chúng ta, như xưa Ngài đã ngự trên Chúa Giê-su và thêm sức cho Chúa Giê-su trong hành trình loan báo Tin Mừng cứu độ. Ngày hôm nay, qua các tín hữu Ki-tô, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động, để soi sáng và ban sức mạnh siêu nhiên, nhờ đó chúng ta có thể hoàn thành nhiệm vụ ngôn sứ mà Chúa đã trao cho chúng ta qua bí tích Thanh tẩy.
Những ngày này, chúng ta đang rộn ràng tưng bừng đón xuân Ất Tỵ. Đối với người tin Chúa, đây là thời điểm để chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa vì Ngài luôn gìn giữ chúng ta. Giống như những người Do Thái trở về quê hương sau thời lưu đày, chúng ta tạ ơn Chúa và cầu xin Ngài tiếp tục nâng đỡ phù trợ chúng ta trên con đường lữ thứ trần gian. Một ơn quan trọng cần phải cầu xin trong những ngày đầu năm, đó là ơn vững đức tin. Giữa bao thử thách của cuộc đời, xin cho chúng ta biết cậy trông vào Chúa, như chiếc mỏ neo giữ cho chiếc thuyền vững vàng trước phiêu bạt của giông tố cuộc đời.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
—————————-
Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh
SUY TÔN LỜI CHÚA
Suy tôn Lời Chúa là một trong những nét cổ điển của phụng tự Kitô giáo, và chắc chắn đây là sự kế thừa truyền thống của Hội đường Do thái, truyền thống này đã có từ thời Ét-ra mà sách Nơkhemia thuật lại vào thời hồi hương sau lưu đày thế kỷ thứ 6 trước công nguyên (lưu đày: 587-538); năm 539 Vua Cyrus Ba Tư ký sắc lệnh hồi hương, cho phép người Do thái trở về quê quán mình. Chấm dứt thời nô lệ 50 năm.
Dân tập họp trong Hội đường vào ngày Sabát để tôn thờ Thiên Chúa, lắng nghe bài đọc Sách Thánh và được các tư tế giải thích đó là sinh hoạt hằng tuần của đạo Do thái. Việc suy tôn Sách Thánh cho thấy dân Do thái xác tín vào lời của Thiên Chúa nói với dân, và coi đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong cộng đoàn, họ dành nhiều thời gian trong ngày sabát để học tập và tôn vinh Sách Thánh, và đó là luật buộc của ngày Sabát. Các Kinh sư, các chuyên viên cắt nghĩa Sách Thánh cho dân.
Đọc và lắng nghe Sách Thánh chiếm chỗ quan trọng trong phụng vụ Do thái, thời đó chỉ có phần đọc và giảng lời Sách Thánh mà thôi. Sách đọc trong các buổi sinh hoạt tôn giáo gồm có sách Ngũ Thư, tức 5 sách đầu tiên của bộ Kinh thánh là Sáng thế, Xuất hành, Lê-vi, Dân số và Đệ nhị luật; sách Luật, các sách Tiên tri và sách Thánh vịnh. Bài Đọc 1 (Nkm 8, 2-4a.5-6.8-10) cho thấy truyền thống sống động này: Tư tế Ét-ra đọc sách Luật từ sáng đến trưa trước toàn thể dân chúng. Toàn dân cung kính tung hô và sấp mặt xuống đất thờ lạy Đức Chúa. Thiên Chúa nói và giáo dục dân qua lời Sách Thánh, lời của Thiên Chúa được coi là sự hiện diện của Người giữa dân, người Do thái tôn trọng cung kính và sống theo lời Thiên Chúa dạy.
Đức Giêsu sau khi rao giảng Nước Trời, được nhiều người ca tụng, Người trở về quê hương của mình miền Galilê và đến Nadarét là nơi Người sinh trưởng, vì là người Do thái đạo đức Đức Giêsu vào Hội đường như người ta quen làm trong ngày Sabát. Được cộng đồng Do thái đón nhận, họ mời Người đứng lên đọc Sách Thánh, bản văn Người đọc là trích đoạn tiên tri Isaia 61,1-2:
“Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (x. Bài Tin Mừng. Lc 1,1-4; 4,14-21).
Lời sấm của tiên tri Isaia được hiểu về Chúa Giêsu, nói lên căn tính, chức vụ cao cả và sứ mệnh trọng đại của Người. Đức Giêsu người thừa sai đầu tiên được Thiên Chúa xức dầu Thánh thần tấn phong Người làm ngôn sứ và được Thiên Chúa sai đi để rao giảng tin mừng. Lời sấm nầy cũng có thể hiểu về các thừa sai, người thừa sai không tự ý mình làm điều mình muốn, nhưng họ được tuyển chọn, được xức dầu Thánh thần và được sai đi rao giảng tin mừng của Chúa, chứ không phải rao giảng chính mình. Sứ mệnh của vị thừa sai ưu tiên cho hạng nghèo hèn, người bị giam cầm, bị áp bức bất công … nghĩa là rao giảng sự giải phóng con người khỏi tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Sứ mệnh nầy ngày nay Giáo hội vẫn tiếp tục thi hành.
Điều gây ngạc nhiên cho cử tọa hôm đó là lời Đức Giêsu tuyên bố rằng các lời sấm của các tiên tri, các mong ước và mọi hứa hẹn của bao thế kỷ trước đây, nay được thực hiện nơi chính bản thân Người: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe” (c. 21). Nghĩa là lời Sách Thánh bằng văn tự chết cứng trong sách vở nay được linh động và ứng nghiệm, trở nên hiện thực nơi con người của Đức Giêsu. Thiên Chúa đã nhiều lần hứa với các tổ phụ sẽ ban Đấng cứu độ, đã nhiều lần các ngôn sứ tuyên sấm sẽ có Đấng cứu tinh. Đùng một cái, lời hứa được thể hiện nơi nhân vật đang giảng dạy trước mắt họ là thanh niên Giêsu. Khi làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia, chúng ta nghiệm ra Đức Giêsu là trung tâm lịch sử ơn cứu độ, ơn cứu chuộc của Đức Giêsu trải rộng từ A-ben công chính đến người được cứu thoát cuối cùng.
Qua lời tuyên bố này Đức Giêsu khẳng định chân tướng thần linh của mình. Những lời sấm mà tiên tri Isaia nói trước đó 8 thế kỷ nay trở nên chương trình và kế hoạch hành động của Đức Giêsu. Sứ mạng của Người là loan báo Tin Mừng. Và giai tầng xã hội được chiếu cố nhiều nhất là hạng người nghèo hèn, cô thế cô thân, bị bỏ rơi, kém may mắn. Quan tâm người hèn mọn là ưu tư hàng đầu của Giáo Hội.
Những lời này gợi nhớ tới Các Mối Phúc Thật trong Tin Mừng Mátthêu, mà chỗ ưu tiên được dành cho các hạng người nghèo hèn, hiền lành, ưu phiền, đói khát, những người thất thế bị bắt bớ vì lẽ công chính (x. Mt 5, 1-11). Những con người bé mọn lại có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Đức Giêsu, như có lần Người cất tiếng ca tụng Chúa Cha đã mặc khải cho hạng người bé mọn về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, mà lại giấu hạng khôn ngoan thông thái. Bé mọn, nghèo hèn, khiêm nhu được ví như Bà Chúa Nghèo được thánh Phanxicô Khó Khăn lựa chọn làm lý tưởng sống cho mình và cho con cái của mình, là Dòng Anh Em Hèn Mọn (Ofm).
Lạy Chúa “Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường con đi”, xin cho con biết yêu mến Lời Chúa, biết đọc, biết lắng nghe, biết cầu nguyện và biết chia sẻ Lời Chúa cho các anh chị em của con. Amen
Lm Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh (gx Đức An, Pleiku)
—————————-
Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên
HỒNG ÂN CỨU ĐỘ
Suy niệm
Sau một thời gian rao giảng khắp miền Galilê, Ðức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng. Ngài vào hội đường trong ngày sabát và được mời đọc Sách Thánh. Ngài đọc sách của ngôn sứ Isaia, đoạn sách nói về ơn gọi và sứ mạng của ông (61,1-2). Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày. Ông thông báo cho dân chúng biết thời kỳ cùng khốn đã chấm dứt, và một kỷ nguyên mới đang tới. Trong đó, người nghèo được đón nhận Tin Mừng, kẻ giam cầm được tha, kẻ mù được sáng, kẻ bị áp bức được tự do, và năm hồng ân của Chúa được khai mở.
Đọc xong đoạn Sách Thánh, Đức Giêsu nhận ra đó chính là lời tiên báo về ơn gọi và sứ mạng của mình. Ngài liền long trọng tuyên bố trước toàn thể dân chúng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Với lời tuyên bố này, Đức Giêsu đã khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ. Đúng là một tin mừng làm nức lòng dân chúng, đem đến cả một bầu trời an vui và hy vọng cho con người.
Đoạn sách Isaia đã thực sự ứng nghiệm nơi Đức Giêsu Kitô, là Đấng đầy tràn Thánh Thần, từ lúc sinh ra, lớn lên, bắt đầu rao giảng công khai, cũng như trong toàn bộ lời nói việc làm, và ngay trong biến cố này. Đúng như lời sấm của ngôn sứ Isaia, Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, kẻ bị giam cầm, kẻ mù lòa, kẻ bị áp bức. Điều này đã từng được minh chứng trước đây khi Gioan Tiền Hô sai các môn đệ ông đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: “Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,4-5).
Đức Giêsu chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài đến để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người, nhưng chính yếu là giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, là đầu mối của mọi đau thương bất hạnh. Hơn nữa, Ngài còn cho con người được tham dự vào thần tính của Thiên Chúa, được trở nên con cái của Chúa Cha trong Thánh Thần.
Thế giới hôm nay cũng còn đầy dẫy những người nghèo, những kẻ bị giam cầm, bị tù đày, bị áp bức, phải sống trong lầm than, cơ cực và thiếu thốn mọi điều. Không chỉ thiếu thốn cơm ăn áo mặc, mà quan trọng là thiếu tình thương, thiếu sự tôn trọng, thiếu cả những nhu cầu cơ bản để sống cho ra người. Họ là những người phải chịu nhiều đau thương bất hạnh do bất công, độc tài, phân biệt, kỳ thị… do tham lam và ích kỷ của chính con người. Tuy nhiên, vẫn có những người tự làm cho mình nghèo khổ vì buồn sầu thất vọng, không còn ý chí tiến thủ; vẫn có những người tự giam hãm mình vì hờn giận oán căm; vẫn có những người mù quáng vì cuồng tín, cao ngạo và cố chấp; vẫn có những người tự áp bức mình bởi những thành kiến và lối sống tiêu cực.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội. Ngài cứu thế qua các bí tích. Ngài đến với con người qua các thừa tác viên và qua tất cả các Kitô hữu. Mỗi người chúng ta là sự tiếp nối công việc của Chúa Giêsu, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, xua tan sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu những oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện của Chúa bằng những hoạt động bác ái.
Dưới sự soi sáng và sức mạnh của Thánh Thần, chúng ta hãy mạnh dạn bước đi để loan truyền tình thương Chúa cho mọi người bằng sự dấn thân hy sinh và phục vụ tận tình. Và như vậy, chúng ta tiếp tục trở nên hình ảnh sống động của lòng Chúa thương xót, và trở nên Tin Mừng của Chúa Giêsu cho mọi người. Là những người được Chúa sai đi chúng ta hãy nhiệt thành thi hành sứ vụ của mình, để làm cho lời ngôn sứ Isaia xưa kia cũng được ứng nghiệm nơi chính bản thân mình.
Năm nay, năm thánh, năm hồng ân của Thiên Chúa đã mở ra cho nhân loại chúng ta, giữa một thế giới còn đầy những chiến tranh hận thù, còn đầy những bóng tối sự dữ và chết chóc, còn bao nhiêu oan khiên và đau khổ trong kiếp người. Ai cũng mong được bình an và một đời sống tươi sáng. Vì thế, năm thánh phải được công bố bằng chính đời sống thánh thiện của chúng ta, là những Kitô hữu dám sống với tất cả tình yêu thương phục vụ, nói lên dấu chỉ của Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay, để những ai đón nhận với lòng tin tưởng và cậy trông vào Chúa sẽ được hưởng ơn cứu độ muôn đời.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Cuộc đời này quả thật là bể khổ,
ai cũng mong được hồng ân cứu độ,
để con người thoát khỏi cảnh hư vô,
không còn phải sống trong kiếp đọa đày.
Tôn giáo nào cũng chủ trương giải thoát,
bằng giáo thuyết và những giới luật vàng,
giúp con người vượt thoát kiếp lầm than,
nhưng xem ra không mấy ai thành đạt,
vì cần một sức mạnh của ân ban,
chứ không chỉ những nỗ lực đơn thuần.
Cũng có những phong trào làm cách mạng,
đưa ra những chủ trương thật lý tưởng,
đã vùng lên để giải phóng cho đời,
hứa hẹn một cuộc sống thật sáng ngời,
đem độc lập và tự do hạnh phúc,
cho trần gian trở nên chốn thiên đàng.
Nhưng thực tế lại càng thêm khốn khổ,
thêm người nghèo và bất công đủ chỗ,
thêm tù đày và lắm nỗi đắng cay,
càng làm cho cuộc sống thêm sa lầy.
Nếu tạo một thiên đàng không có Chúa,
chẳng khác nào địa ngục chốn trần gian,
sẽ gây nên bao cuộc chiến tương tàn,
lịch sử cho thấy sự kinh hoàng như thế.
Xin hướng nhân loại chúng con về với Chúa,
Đấng duy nhất đến cứu độ trần gian,
để mọi người được đón nhận hồng ân,
là an vui và hạnh phúc vô ngần. Amen.
Lm. Thái Nguyên
______________________________