Chúa Nhật XIV Thường Niên, Năm C (CN 06.07.2025) – Khí Cụ Bình An (Lc 10,1-12.17-20)

Bài đọc 1: Is 66,10-14c

Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả.

Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.

10 Đức Chúa phán thế này :

“Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem,
hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ,
hỡi tất cả những người yêu mến Thành Đô !
Hãy cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng,
hỡi tất cả những người đã than khóc Thành Đô,
11để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi,
được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang,
như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.
12Vì Đức Chúa phán như sau :
Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả,
và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ.
Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ,
được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối.
13Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy ;
tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về.
14cNhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc,
thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh.
Đức Chúa sẽ biểu dương quyền lực của Người
cho các tôi tớ biết.”

Đáp ca: Tv 65,1-3a.4-5.6-7a.16 và 20 (Đ. c.1)

Đ.Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa.

1Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa,2đàn hát lên mừng Danh Thánh rạng ngời,
nào dâng lời ca tụng tôn vinh !3aHãy thưa cùng Thiên Chúa :
“Khủng khiếp thay, sự nghiệp của Ngài !”

Đ.Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa.

4Toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ,
và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh.5Đến mà xem công trình của Thiên Chúa :
hành động của Người đối với phàm nhân
thật đáng kinh đáng sợ !

Đ.Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa.

6Chúa làm cho biển khơi hoá đất liền,
và dân Người đi bộ qua sông ;
việc Người làm đó khiến ta hoan hỷ.7aChúa uy dũng hiển trị muôn đời.

Đ.Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa.

16Tất cả những ai kính sợ Chúa Trời,
đến mà nghe tôi kể việc Chúa đã làm để giúp tôi.20Xin chúc tụng Thiên Chúa
đã chẳng bác lời thỉnh nguyện tôi dâng,
lại cũng không dứt nghĩa đoạn tình.

Đ.Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa.

Bài đọc 2: Gl 6,14-18

Tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giê-su.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ga-lát.

14 Thưa anh em, ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta ! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian. 15 Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. 16 Chúc tất cả những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Ít-ra-en của Thiên Chúa được hưởng bình an và lòng thương xót của Người. 17 Từ nay, xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi nữa, vì tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giê-su. 18 Thưa anh em, nguyện xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho thần trí anh em được đầy tràn ân sủng. A-men.

Tung hô Tin Mừng:Cl 3,15a.16a

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Ước chi lòng anh em phấn khởi vì được Đức Ki-tô ban tặng bình an, và ước chi lời Người hằng sinh hoa kết quả dồi dào trong anh em. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng: Lc 10,1-12.17-20 

Bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

1 Khi ấy, Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người bảo các ông :

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói : “Bình an cho nhà này !” 6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy ; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ : “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” 10 Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói : 11 “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này : Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” 12 Thầy nói cho anh em hay : trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó.”

17 Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói : “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” 18 Đức Giê-su bảo các ông : “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. 19 Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. 20 Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.”

(Nguồn: ktcgkpv.org)

—————————

 

Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên

 

 

“Niềm vui” trong cuộc sống là điều ai trong chúng ta cũng mong ước, và nó cũng đồng nghĩa với hạnh phúc. Con người dù giàu hay nghèo, cũng muốn sống vui vẻ. Niềm vui không thể mua bằng tiền bạc hay những mưu mô tính toán. Niềm vui đích thực là niềm vui trong tâm hồn. Người có niềm vui đích thực, kể cả lúc ốm đau hoạn nạn hay gian nan thử thách, vẫn cảm nhận được tâm hồn thư thái an bình. Phụng vụ hôm nay muốn hướng chúng ta đến với niềm vui diệu kỳ ấy.

Trước hết, đó là niềm vui được Thiên Chúa tha thứ. Mỗi chúng ta đều là tội nhân, dù ở bậc sống nào. Bởi lẽ xung quanh chúng ta là những cảm dỗ vây bủa, ranh giới giữa “tội” và phúc”, “tốt” và “xấu” vô cùng mong manh. Ki-tô hữu tin rằng, những ai phạm tội mà thành tâm sám hối thì được Chúa tha thứ. Thánh Gio-an tông đồ đã viết như sau: “Nếu chúng ta nói rằng mình không có tội, thì chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính, sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1Ga 1,8-9). Bài đọc I trích từ sách ngôn sứ I-sa-i-a đã diễn tả niềm vui của dân Do Thái trong tương lai. Giữa cảnh lưu đày, vị ngôn sứ loan báo sẽ có ngày Thiên Chúa can thiệp và giải phóng dân Ngài. Ngày ấy, đau khổ sẽ chấm dứt. Cảnh tha hương sẽ chẳng còn. Niềm vui ấy được diễn tả với những hình ảnh sinh động: “Này Ta sẽ tuôn đổ xuống Thành Đô, ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân, chảy về tràn lan như thác vỡ bờ… như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy”. Thiên Chúa giải phóng dân Người, tức là Thiên Chúa chấp nhận tinh thần sám hối và tha thứ cho họ. Bởi lẽ, dưới cái nhìn của các ngôn sứ, sự kiện dân bị lưu đày gần 50 năm tại Ba-by-lon chính là một “liều thuốc đắng” để dân tỉnh ngộ và từ bỏ tội lỗi. Khi một tội nhân được ơn tha thứ, tâm hồn họ thanh thản an vui, như trút được gánh nặng, như được giải phóng khỏi cảnh lưu đày. Chúng ta hãy vui lên, vì Thiên Chúa nhân hậu từ bi và sẵn sàng tha thứ tội lỗi của chúng ta.

Ki-tô hữu còn hân hoan vui mừng vì được thuộc về dân của Thiên Chúa, dân được cứu chuộc nhờ máu của Đức Giê-su. Thánh Phao-lô đã diễn tả niềm hãnh diện của ngài. Niềm hãnh diện này không giống với lối suy nghĩ thông thường, nhưng rất khác lạ: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta!”. Thập giá là biểu tượng của đau khổ và hận thù. Thập giá cũng nhắc chúng ta về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa qua Đức Giê-su. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giê-su mà tín hữu trở nên thụ tạo mới, là nghĩa tử của Thiên Chúa. Những lo lắng đời thường dễ bóp nghẹt niềm vui của chúng ta. Nhiều Ki-tô hữu không thực sự cảm nhận được niềm vui thuộc về Đức Ki-tô và Giáo Hội của Người. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã viết: “Có những Ki-tô hữu sống đời mình giống như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục Sinh. Đương nhiên tôi hiểu rằng niềm vui ấy không phải lúc nào trong cuộc đời cũng được biểu lộ giống nhau, nhất là trong những lúc hết sức khó khăn. Niềm vui tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm tin chắc chắn  của chúng ta rằng, bất luận thế nào, chúng ta được thương yêu vô bờ” (Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, số 6). Vâng, vẫn còn đó những nỗi âu lo trăn trở trong cuộc sống đời thường, nhưng tín hữu được mời gọi nhận ra tình thương của Thiên Chúa, phó thác nơi Ngài để Ngài soi sáng cho mình một hướng đi. Chúng ta hãy hãnh diện vì được làm con Thiên Chúa và được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Ki-tô, tức là Giáo Hội của Người.

Niềm vui càng lớn lao hơn khi nó được chia sẻ. Tình yêu đích thực chỉ đạt được khi bản thân mình mong muốn và đem lại hạnh phúc cho người khác. Ki-tô hữu có sứ mạng chia sẻ niềm vui Tin Mừng với những người xung quanh. Chúa Giê-su chọn và sai bảy mươi hai môn đệ, với những lời dặn dò kỹ lưỡng. Điều cốt yếu đối với các nhà thừa sai, không phải là những nhu cầu vật chất, mà là làm sao để sứ điệp được loan báo và được đón nhận. Các môn đệ đã thực sự cảm nhận được hạnh phúc, khi thấy nhờ lời họ rao giảng mà quyền lực ma quỷ bị đẩy lui. Tuy vậy, niềm vui đích thực của người tông đồ không ở việc đưa nhiều người về với Chúa hay tiêu trừ được nhiều ma quỷ, mà là tên của họ đã được khắc ghi trên trời, trong trái tim của Thiên Chúa. Bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả lúc bị xua đuổi, người môn đệ vẫn nỗ lực đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.

Loan báo Tin Mừng là bản chất của Giáo Hội và là sứ mạng của mọi Ki-tô hữu. Tiếc rằng, nhiều tín hữu chưa ý thức được điều này. Biết bao phong trào truyền giáo; biết bao lời kêu gọi và chương trình của Giáo Hội, hoàn vũ cũng như địa phương, nhưng kết quả truyền giáo vẫn còn hết sức khiêm tốn. Phải chăng chúng ta, tôi cũng như quý vị chưa thực sự có được “lửa truyền giáo” nơi tâm hồn và trong hành động hằng ngày? Xin Chúa ban ân sủng và phù giúp chúng ta. A-men.

+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

(Nguồn: tonggiaophanhanoi.org)

—————————

 

Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh

 

 

SAI ĐI TRUYỀN GIÁO

 

Sau một đêm dài tỉnh thức cầu nguyện với Chúa Cha trên núi, sáng ngày Đức Giêsu tuyển chọn Mưới Hai người trong nhóm các môn đệ làm Tông Đồ (có nghĩa người được sai đi) (Lc 6, 12-16).  Con số Mười Hai nhắc lại con số các chi tộc của dân Ítraen cũ, nó cũng biểu tượng cho Dân Thiên Chúa mới được thiết lập trên 12 tông đồ, như là 12 cột trụ của Giáo Hội, Dân mới, Dân Thiên Chúa.  Và “Người đã sai họ đi công bố Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9, 2). 

 

Công việc thì bao la và ngày giờ thì co lại, Đức Giêsu biết giờ từ giả trần gian của Người đã gần đến, Người đã quyết tâm đi lên Giêrusalem để chịu nạn (Lc 9, 51), trong bối cảnh đó Đức Giêsu chỉ định thêm 72 môn đệ nữa và sai cứ hai người vào các thành và các làng mà Người sẽ đến (Bài Tin Mừng. Lc 10,1-12.17-20). Nhóm 72 đã thành công và họ hớn hở trở về báo tin vui cho Đức Giê-su. 

“Sai cứ hai người một”, theo quan niệm của người Do-thái, chứng của hai người thì đáng tin. Vào thời Công vụ Tông đồ chúng ta thấy họ từng cặp đi chung với nhau, như Saolô và Banaba (Cv 13, 2-4), Banaba và Máccô, Phaolô và Xila (CV 15, 39-40).  Con số 72 biểu tượng cho toàn thể dân ngoại, dựa vào sách Sáng Thế chương 10, chương nói về các con ông Nô-ê sau lụt đại hồng thuỷ.  Con số nói lên tính phổ quát của sứ mạng truyền giáo được trao cho Hội Thánh, đồng thời cũng nói lên sự mở cửa cho dân ngoại đón nhận đức tin. 

Tin Mừng Chúa Kitô không độc quyền dành cho bất cứ ai, tất cả mọi dân tộc đều được mời tham dự.  Khi còn tại thế Đức Giêsu đã miệt mài rao giảng và ra lệnh cho các môn đệ đem Tin Mừng đến cho muôn dân.  Không những vậy đã ba lần Đức Giêsu đi về phía dân ngoại khi Người vượt biển Galilê sang vùng đất dân ngoại, trừ quỷ và cho quỷ nhập vào đàn heo chết chìm dưới biển và Đức Giêsu đã làm những phép lạ ở giữa dân ngoại nữa. 

Vượt biển như là sự phá rào chắn tâm lý, vượt ra ngoài não trạng cục bộ, một kiểu vượt biên trong tâm trí, việc vượt biển diễn tả sự xóa bỏ tính cục bộ, đề cao tính phổ quát của ơn cứu độ.  Vào thời Đức Giêsu, nước Do thái chia làm ba miền, miền Bắc Galilê là vùng dân ngoại, miền Trung Samari là vùng đa thần giáo, miền Nam Giuđa có đền thờ Giêrusalem là vùng tôn giáo tinh ròng.  Não trạng ba miền có sự phân biệt và kỳ thị nhau.  Trong đêm Chúa chịu nạn người tớ gái nói với ông Phêrô: giọng nói Galilê của ông tố giác ông.  Đức Giêsu cũng bị dân từ chối không cho mượn đường băng qua Samari.  Cho nên việc Chúa sang bên kia biển hồ cho thấy tinh thần truyền giáo của Người hướng về dân ngoại và tính phổ quát của ơn cứu độ.

Lệnh truyền giáo của Đức Giêsu trở thành bản chất của Giáo Hội đến nỗi Công Đồng Vaticanô II dạy : Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo.  Do đó một Giáo Hội không truyền giáo là một Giáo Hội lụi tàn, mất sức sống.  Một Kitô hữu không truyền giáo là Kitô hữu èo uột.  Sứ mạng nầy được Chúa Kitô phục sinh trao cho các môn đệ trước khi ngự về trời như lời trăn trối: “Các con hãy ra đi rao giảng cho muôn dân”.  Đức Giêsu cũng đã thi hành sứ mệnh nầy, Người là đệ nhất Thừa Sai của Thiên Chúa, việc nầy cho hiểu rằng khi rao giảng Tin Mừng, người Kitô hữu tham dự vào cùng một sứ mệnh của Chúa Giêsu Kitô, một sứ mệnh cao cả làm cho người lương dân trở thành con Thiên Chúa và được tham dự sự sống của Thiên Chúa. 

Sống trên đất Tây Nguyên, người Kitô hữu dễ dàng ý thức sứ mệnh nầy, khi chung sống với các anh chị em thuộc các sắc tộc khác nhau.  Đây là sứ mệnh không biên giới, mà cho đến hôm nay, nhu cầu cấp thiết vẫn như ngày đầu thành lập Giáo Hội.  Việt Nam chỉ có 7% dân số chấp nhận đức tin công giáo, là nước thứ hai của Châu Á sau Phi Luật Tân có số tín hữu cao nhất 85%.  Sau 2000 năm, con số người tin theo Đức Giêsu Kitô mới chỉ 1/7 nhân loại mà thôi, hiện nay là 1,3 tỷ người công giáo trên khắp thế giới.  Sứ mệnh quá lớn so với số thợ gặt quá ít ỏi, cần phải xin thêm thợ lành nghề. 

Một gương mặt sáng chói và chuẩn mực cho tất cả chúng ta trong rao giảng Tin Mừng đó là thánh Phaolô, ngài “chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Chúa Giêsu Kitô” (Bài đọc 2. Gl 6, 14-18).  Chúa Kitô thập giá là đối tượng duy nhất của lời ngài rao giảng, chứ không phải các hệ ý thức chính trị, kinh tế hay văn hoá.  Ngài chỉ muốn rao giảng Đức Kitô bị đóng đinh trên thập giá chứ không phải một đức Kitô vinh quang hào nhoáng.

Lạy Chúa Giêsu, sứ mệnh truyền giáo là mẫu số chung cho mọi Kitô hữu, tuy nhiên con mấy khi quan tâm đến vấn đề nầy, chưa kể là xa lạ, cho dù con đang sống trên phần đất truyền giáo Tây Nguyên.  Xin cho con ý thức và góp phần nhỏ mọn của mình vào sứ mệnh cao cả Chúa truyền ban. Amen

(Lm Luy Nguyễn Quang Vinh, Giáo xứ Đức An, Pleiku)

___________________________________

 

Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên

 

 

ANH EM HÃY RA ĐI

 

Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một hành động đầy tính tiên tri: “Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai người khác và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, đến các thành và nơi mà chính Người sẽ đến.” (Lc 10,1). Điều này có nghĩa mọi môn đệ đều được sai đi, không chỉ riêng các Tông đồ, không chỉ linh mục tu sĩ, mà là toàn thể Dân Chúa.

1. Sứ vụ của mọi người tín hữu

Con số “bảy mươi hai” gợi nhớ đến danh sách các dân tộc được kể trong sách Sáng Thế (St 10), như để nhấn mạnh rằng: Tin Mừng là để loan báo cho toàn thể nhân loại. Và như thế, mọi Kitô hữu đều có sứ mạng truyền giáo. Không ai trong Giáo Hội được miễn trừ. Như Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định trong Redemptoris Missio:

“Không ai trong những người tin vào Đức Kitô, cũng không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc.” (số 3)

Chính vì thế, truyền giáo không phải là một “việc tùy chọn”, mà là bản chất của Hội Thánh (Ad Gentes, số 2).

Đức Thánh Cha Phanxicô nói cho chính ngài và nói cho mỗi người chúng ta rằng: “Tôi có một sứ mạng trên mặt đất này; đó là lý do tại sao tôi hiện hữu trong thế giới này” (Evangelii Gaudium, số 273).

2. Loan báo Tin Mừng không thể làm một mình

Chúa Giêsu sai các môn đệ từng hai người một, không phải ngẫu nhiên. Người không muốn các môn đệ là những cá nhân đơn độc, hành động theo ý riêng, nhưng là những người biết hiệp thông, biết nâng đỡ và sửa sai cho nhau. Loan báo Tin Mừng là một công trình cộng đoàn.

Ngày nay, nhiều người rơi vào ảo tưởng có thể truyền giáo bằng kỹ thuật, bằng những lời hùng biện. Nhưng nếu không có cộng đoàn sống Tin Mừng thật sự, thì lời nói chỉ là âm vang rỗng. Chính đời sống yêu thương hiệp nhất mới là lời rao giảng mạnh mẽ nhất.

3. Truyền giáo khởi đầu từ cầu nguyện

Điều đầu tiên Chúa Giêsu dạy các môn đệ không phải là chiến lược, kỹ năng hay kế hoạch, mà là cầu nguyện: “Vậy anh em hãy xin Chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2).

Truyền giáo không khởi sự từ con người, mà từ chính Thiên Chúa – Chủ mùa gặt. Nếu không cầu nguyện, mọi nỗ lực truyền giáo sẽ trở nên trống rỗng. Không có Thánh Thần, mọi công cuộc truyền giáo chỉ là “làm việc tông đồ theo kiểu thế gian”: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5)

4. Một sứ vụ cấp bách, không thể trì hoãn

Chúa nói: “Đừng chào ai dọc đường” (Lc 10,4). Đây là một cách nói Đông phương để diễn tả tính cấp bách của sứ vụ. Không phải Chúa dạy vô lễ, nhưng là để nhắc chúng ta: Tin Mừng không thể bị trì hoãn. Cứu độ là chuyện sống chết, không thể chần chừ.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói rõ: “Ngày nay còn rất nhiều người không biết Đức Giêsu. Việc rao giảng cho người ngoài Kitô giáo là công việc rất khẩn cấp… Giáo Hội được sinh ra để ‘ra đi’.” (Sứ điệp Truyền giáo 2014)

  1. Loan báo Tin Mừng là đem bình an và chữa lành

Truyền giáo không phải là thuyết phục ai theo đạo, nhưng mang lại bình an của Thiên Chúa, sự chữa lành và niềm vui ơn cứu độ: “Vào nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này.” (Lc 10,5)

Nếu người loan báo không mang trong lòng mình sự bình an, nếu lời rao giảng gây chia rẽ, thì đó không còn là Tin Mừng.

Nhưng Chúa Giêsu cũng không che giấu sự thật: “Thầy sai anh em đi như chiên non vào giữa bầy sói” (Lc 10,3). Làm chứng cho Chúa luôn đi kèm với gian khổ, hiểu lầm, và đôi khi là bách hại. Nhưng chúng ta không đơn độc – Thánh Thần sẽ ở cùng: “Họ sẽ bắt bớ anh em, nhưng đừng lo phải nói gì… chính Thánh Thần sẽ nói” (Mt 10,19-20)

6. Truyền giáo tại Châu Á và Việt Nam hôm nay

Thực tế hiện nay thật đáng suy nghĩ: Châu Á có gần 2/3 dân số thế giới, nhưng chỉ khoảng 8% biết đến Chúa Kitô, trong đó chỉ 2,5% là Kitô hữu sống đạo tích cực. Việt Nam có hơn 100 triệu dân, mà chỉ 6,5 triệu là Công Giáo – khoảng 7,2%.

Đáng tiếc, trong khi cánh đồng đang mênh mông chín vàng, thì lương tâm truyền giáo nơi nhiều Kitô hữu đã nguội lạnh. Cả hàng ngũ linh mục, tu sĩ, cũng có những người quên mất rằng họ được “sai đi”, chứ không phải để “định cư” trong vùng an toàn.

Cha Trần Kim Ngọc đã từng liệt kê năm lý do khiến truyền giáo yếu kém: thiếu nhân lực, thiếu đào tạo, thiếu tổ chức, thiếu mục tiêu và cộng tác. Nhưng sâu xa hơn nữa, đó là một đức tin chưa trưởng thành, một tình yêu chưa đủ lớn để thúc bách người ta bước ra khỏi mình.

“Chỉ có ai bị tình yêu Thiên Chúa thiêu đốt mới có thể thiêu đốt người khác.” (Thánh Augustinô)

Ngoài ra, trong một lá thư của cha Chân Tín gửi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, cho thấy chính quyền muốn các nhà tu hành lao đầu vào việc xây dựng những nhà thờ nguy nga, tổ chức lễ hội rầm rộ, bày ra những cuộc ăn uống linh đình để quên đi, hoặc hoàn toàn dửng dưng trước sứ mạng mà Đức Giêsu đã ủy thác cho Giáo Hội.

7. Noi gương Chúa Giêsu – Người luôn lên đường

Cả cuộc đời của Đức Giêsu là một cuộc xuất hành không ngừng: sinh ra ngoài đường, sống rao giảng ngoài đường, và chết cũng ngoài đường. Ngài không an cư, nhưng luôn ra đi vì Nước Trời.

Ngài không xây những ngôi đền lớn, nhưng xây Vương Quốc yêu thương trong lòng người. Ngài không để lại công trình, nhưng để lại những chứng nhân: những chứng nhân của lòng Chúa thương xót. Những chứng nhân đó giống như “Các ngọn hải đăng không thổi còi – chúng chỉ chiếu sáng.” (L. Moody)

8. Cần một khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô

Chúng ta quen sống an nhàn trong một tổ chức quá đầy đủ, một Giáo Hội cơ chế quá an toàn, nên dần mất đi tấm lòng và tính cách của Đức Giêsu: một tấm lòng khao khát cho mọi người được ơn cứu độ, và một tính cách luôn ra đi phục vụ với tất cả tình yêu.

Con người hôm nay mong thấy được khuôn mặt Đức Kitô nơi chúng ta: khuôn mặt hiền lành và khiêm nhường, với lối sống khó nghèo, thanh bạch. Người Châu Á hôm nay rất dễ đón nhận người tông đồ biết sống khổ hạnh, thoát tục, trầm tư, nhân từ, phục vụ.

Với khuôn mặt của Đức Kitô, chúng ta mới tỏa ngát hương thơm của của Ngài, để có thể nâng con người lên với Thiên Chúa.  

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Chúa đã sai chúng con vào thế giới,
tùy hoàn cảnh mỗi người ở giữa đời,
để con loan Tin Mừng khắp mọi nơi.

Nhưng xem ra con chưa quan tâm tới,
vẫn còn giữ đạo mông lung xa vời,
chỉ muốn sống đời mình cách thảnh thơi,
chẳng tha thiết tới điều Chúa mong đợi.

Xung quanh con có nhiều người dân ngoại,
sống bơ vơ trong tình cảnh lạc loài,
không tìm được ý nghĩa trong hiện tại,
chẳng thấy đâu lẽ sống của ngày mai.

Bao người đói khát cơm áo gạo tiền,
nhưng không bằng họ đói khát tình thương,
còn hơn nữa đói khát Chúa thiên đường,
cuộc đời họ biết bao là gai chướng.

Họ mong được tự do và kính trọng,
muốn là mình trong tình nghĩa đệ huynh,
nên cần gặp được ai biết đoái hoài,
có trái tim bao dung và quảng đại.

Cuộc đời con đã là Ki-tô hữu,
nên đừng quá bận tâm về chính mình,
mà phải thấy được chương trình của Chúa,
thấy ân ban và sứ mạng đã trao.

Cho con thấy đời mình đẹp biết bao,
vì Tin Mừng mà con đi loan báo,
xin cho con được trở nên nhân chứng,
dám sống điều mà mình đã tuyên xưng. Amen.

Lm. Thái Nguyên

(Nguồn: gpcantho.com)

______________________________

 

Suy niệm 4: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ

 

 

“Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông” (Lc 10:9).

Quý ông bà và anh chị em thân mến,

Với Bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, tôi thiết nghĩ quý vị và tôi hãy cùng nhau ứng dụng phương pháp chiêm niệm vào trong giờ cầu nguyện của chúng ta sẽ sinh nhiều ích lợi thiêng liêng cho cuộc sống và sứ vụ của chúng ta hơn.

Đặt Bối Cảnh: “Ngày nay cũng cần có một sự dấn thân xác tín hơn nữa của Giáo Hội, thực hiện công cuộc tái loan báo Tin Mừng để tái khám phá niềm vui đức tin và tìm lại sự hăng say thông truyền đức tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu – vốn là điều không thể thiếu – kín múc được sức mạnh và năng lực trong sự khám phá hằng ngày tình yêu của Chúa. Thực vậy, đức tin tăng trưởng khi được sống như một cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh và khi được thông truyền như một kinh nghiệm về ơn thánh và niềm vui. Đức tin phong phú hóa, vì mở rộng con tim trong niềm hy vọng và giúp mang lại một chứng tá có khả năng sinh sản : nó mở rộng tâm trí của những người lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, mời gọi gắn bó với Lời Ngài để trở thành môn đệ của Ngài.” (trích “Porta Fidei” số 7 của ĐTC Biển Đức XVI)

Đặt Khung Cảnh: Lc 10,1-9. Các môn đệ vây quanh Đức Giêsu để lắng nghe “bài sai”. Nhìn ngắm khung cảnh nơi thầy trò Đức Giêsu quy tụ: ở một ngọn núi cao hay tại một nơi đất bằng hay bên một dòng sông thơ mộng?

Ơn Xin: Xin ơn hiểu biết Lời Chúa hơn, yêu mến Lời Chúa hơn và sẵn sàng thực thi Lời Ngài dù Lời ấy có nhiều thách đố.

Chiêm Niệm: Lc 10,1-9.

Đoạn Lời Chúa chúng ta sẽ chiêm ngắm (Lc 10,1-9) trình thuật về Bài Sai của Đức Giêsu dành cho những người đang bước theo Người. Chúa sai bảy mươi hai môn đệ ra đi loan báo Tin Vui Cứu Độ cho những ai chưa nghe biết Lời Chúa.

Chúa sai từng hai người một, đi với nhau (c. 1) rao giảng và làm chứng về Lời Chúa. Hình ảnh này giống với hình ảnh hai môn đệ trên đường Emmaus (x. Lc 24:13-35). Đây cũng là một trong những nét văn hóa của người Do-thái, hai người đi với nhau để nâng đỡ nhau, để bổ túc cho nhau khi nói cho người khác về Lời Chúa. Trong khi người Việt Nam đi với nhau hoặc làm việc với nhau thì dễ xích mích, bất hòa… Đâu là nguyên do dẫn tới điều đáng tiếc này? Chúng ta thử phản tỉnh xem vì sao!

“Như chiên con giữa bầy sói” (c. 3): cánh đồng truyền giáo đầy rẫy hiểm nguy. Ngày nay, cánh đồng ấy vẫn chất chứa nhiều “thú dữ” luôn rình rập người môn đệ của Đức Giêsu nhưng họ không đi một mình vì có Thầy Giêsu vẫn đi cùng và sức mạnh của Thầy giúp họ chiến thắng “thú dữ”, như Sứ Điệp Thượng HĐGM lần XIII đã chia sẻ: “Chúng ta không cảm thấy nhát sợ vì những hoàn cảnh chúng ta đang sống. Thế giới chúng ta đầy rẫy những mâu thuẫn và thách đố, nhưng vẫn là công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Thế giới này tuy bị tổn thương vì sự ác, nhưng vẫn luôn được Thiên Chúa yêu thương. Thế giới này là một cánh đồng trong đó có thể canh tân việc gieo vãi Lời Chúa để tái mang lại hoa trái” (số 6).

“Đừng mang theo bao bị, giày dép, túi tiền” (c. 4a): không nên hiểu theo nghĩa đen câu nói này của Đức Giêsu vì nó chưa sát thực tế, nhưng có lẽ nên hiểu rằng “hãy ký thác đường đời cho Chúa”, cho Đấng đã sai phái người môn đệ. Có lẽ một trong những điều cốt lõi trong đời sống thiêng liêng của người môn đệ Đức Giêsu là “dám tín thác vào Chúa và dám yêu mến anh chị em đồng loại” như Thượng HĐGM nhắc nhớ: “Không có chỗ đứng cho sự bi quan trong tâm trí những người biết rằng Chúa đã chiến thắng sự chết và Thánh Thần của Chúa hoạt động mạnh mẽ trong lịch sử. Với lòng khiêm tốn và quyết tâm, một thái độ đến từ việc xác tín rằng sự thật sau cùng sẽ chiến thắng, chúng ta đến với thế giới này và muốn thấy trong đó một lời mời gọi của Thiên Chúa trở thành chứng nhân về Danh Thánh của Ngài. Giáo Hội chúng ta sinh động và, với niềm can đảm của đức tin và chứng tá của bao nhiêu con cái mình, Giáo Hội đương đầu với những thách đố do lịch sử đem lại” (số 6) và Tông Huấn “Porta Fidei” khẳng định: “Chỉ nhờ tin tưởng mà đức tin tăng trưởng và vững mạnh; không có cách nào khác để đạt tới sự chắc chắn về chính cuộc sống của mình nếu không liên tục phó thác trong tay của một tình yêu ngày càng được cảm nghiệm lớn lao hơn vì bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa” (số 7).

Hành trang của người môn đệ Đức Giêsu chính là Lời của Thầy Giêsu, Lời đem lại Bình An và Sự Sống cho con người. Chúng ta có thể chiêm ngưỡng hình ảnh Đức Maria đi thăm viếng người chị là bà Elizabeth: Đức Maria mang theo bào thai Giêsu vừa được cưu mang trong thân thể của mình, đi tới viếng thăm người chị họ, để rồi cả hai mẹ con (Elizabeth và Gioan) vui mừng hớn hở hân hoan. Trên con đường của người môn đệ, không có gì quý hơn ngoài Thầy Giêsu và Lời của Thầy. Thầy Giêsu chính là nguồn Bình An cho những ai đón nhận Lời Ngài.

“Đừng chào hỏi ai dọc đường” (c. 4b): dường như mệnh lệnh sai đi của Thầy Giêsu rất cấp bách, không có thời gian để người môn đệ thăm hỏi bà con, ăn uống và nghỉ ngơi đây đó; không có thời gian để người môn đệ can thiệp vào những sự việc trần thế, vì “Triều Đại Thiên Chúa đã tới gần”, như thánh Phaolô đã từng thốt lên: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5,14), như thánh Phan-xi-cô Xavier đã từng khát khao được đứng giữa Đại học Paris kêu gọi mọi người mau bước chân ra đi loan báo Tin Mừng cho những vùng đất mới đang khát khao được nghe biết Lời Chúa.

“Triều Đại Thiên Chúa” thường được nói trên môi miệng của Đức Giêsu khi Người rao giảng Tin Mừng. “Triều Đại Thiên Chúa” thường được hiểu là chính Đức Giêsu. Người là Nước Trời. Người đã đến rồi. Người đã và đang gõ cửa từng tâm hồn con người, nhưng có nhiều người còn đang ngủ say nên chưa nghe tiếng gõ cửa, có người nghe thấy tiếng gõ cửa nhưng hoài nghi và ngại ngùng, v.v.. Chúa Giê-su không đòi hỏi gì nhiều nơi người loan báo Tin Mừng. Người chỉ cần các cộng tác viên nói một câu “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông” với một sự thấu cảm tận xương tủy, một chiều sâu nội tâm về kinh nghiệm của Thầy Giê-su mà thôi.

Câu hỏi Gợi ý Cầu nguyện:

* Chúng ta vừa chiêm ngắm Lời của Thầy Giêsu trong đoạn Phúc Âm Lc 10:1-9, Lời ấy nói gì với bản thân mỗi người chúng ta? Lời Chúa có làm cho con tim chúng ta bừng cháy ngọn lửa Tin – Cậy – Mến trong cuộc đời sứ vụ của mỗi người chúng ta không? Lời Chúa có thách đố chúng ta khi đòi hỏi một sự tín thác tuyệt đối vào Đấng Sai Đi? Khi phải đối diện với những gian truân, thử thách, no đầy, đói khổ, đam mê… trên đường sứ vụ, chúng ta phải nói gì với Chúa, phải làm gì để vượt qua?

* Trong ơn gọi Kitô hữu, quý vị nên làm gì để đáp trả lệnh truyền của Chúa trong khả năng của mình (buôn bán, thợ may, thợ hớt tóc, kỹ sư, nhân viên, cô giáo, v.v..)?

(Gp Kon Tum)

WGPKT(04/07/2025) KONTUM