
Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.
Bài trích sách Dân số.
4b Trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn. 5 Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê rằng : “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này.”
6 Bấy giờ Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. 7 Dân đến nói với ông Mô-sê : “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi.” Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. 8 Đức Chúa liền nói với ông : “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” 9 Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.
Đ.Anh em đừng lãng quên những việc Thiên Chúa làm.
1Dân tôi hỡi, này nghe tôi dạy bảo,
lắng tai đón nhận lời lẽ miệng tôi.2Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ,
công bố điều huyền bí thuở xa xưa.
Đ.Anh em đừng lãng quên những việc Thiên Chúa làm.
34Khi Chúa giết họ, họ mới đi tìm Chúa,
mới trở lại và mau mắn kiếm Người,35mới nhớ rằng : Thiên Chúa là núi đá họ ẩn thân,
Thiên Chúa Tối Cao là Đấng cứu chuộc họ.
Đ.Anh em đừng lãng quên những việc Thiên Chúa làm.
36Miệng họ phỉnh phờ Chúa, lưỡi họ lừa dối Người ;37còn lòng dạ chẳng chút gì gắn bó,
chẳng trung thành giữ giao ước của Người.
Đ.Anh em đừng lãng quên những việc Thiên Chúa làm.
38Nhưng Người vẫn xót thương, thứ tha không tiêu diệt,
nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí.
Đ.Anh em đừng lãng quên những việc Thiên Chúa làm.
Đức Ki-tô đã tự khiêm tự hạ, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Người.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Phi-líp-phê.
6Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
7nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
8Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.
9Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
10Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ ;
11và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng :
“Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Muôn lạy Chúa Ki-tô,
chúng con tôn thờ và chúc tụng Chúa,
đã dùng cây thập giá
mà cứu chuộc trần gian. Ha-lê-lui-a.
Con Người sẽ phải được giương cao.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
13 Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng : “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. 14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
16 “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
(Nguồn: ktcgkpv.org)
—————————
Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Lịch sử dân tộc Do Thái hay Cứu độ được dệt lên bằng một chuỗi liên tiếp những phản bội của dân và lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa mang tâm tình của người cha, đồng thời cũng có tâm tình của người mẹ. Cứ mỗi lần dân phạm tội, Thiên Chúa lại ngăm đe và trừng phạt. Mỗi khi họ sám hối, Ngài lại nguôi giận và thứ tha. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với ông Môi-sen qua sự kiện bụi gai cháy bừng, Ngài đã diễn tả với ông nỗi niềm của Ngài: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật.” (Xh 3,7-8). Sau này, chúng ta lại được nghe Chúa Giê-su nói với môn đệ cũng một nỗi niềm ấy: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường.” (Mt 15,32). Thiên Chúa của chúng ta là thế đó. Đức Ma-ri-a, khi cảm nhận được tình thương vô bờ của Thiên Chúa, đã thốt lên: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50).
Dù đã chứng kiến những điềm thiêng dấu lạ qua sự kiện vượt qua Biển Đỏ, dân Do Thái lại sớm thay lòng đổi lòng dạ. Trong khi vị thủ lãnh là ông Môi-sen lên núi cầu nguyện, thì dân lại muốn tìm một vị thần khác để thay thế, đó là con bê vàng. Họ tôn vinh một con vật là thần đã giải phóng họ ra khỏi Ai-cập. Bài đọc I hôm nay ghi lại lời thỉnh cầu của ông Môi-sen, nhờ đó “nét mặt Đức Chúa dịu lại”. Đây là cách diễn tả Thiên Chúa rất giống con người. “Ngài nổi giận, giận trong giây lát; nhưng yêu thương, thường suốt cả đời” (Tv 29,6).
Tin Mừng hôm nay là một chuỗi ba dụ ngôn, diễn tả Thiên Chúa ở nhiều khía cạnh khác nhau. Người chăn chiên đi tìm chiên lạc là hình ảnh Thiên Chúa không ngừng kiếm tìm chúng ta. Ngài soi sáng và hướng dẫn chúng ta nhận ra Ngài qua thiên nhiên vũ trụ và qua tiếng nói của lương tâm. Dụ ngôn người đàn bà tìm thấy đồng bạc bị mất cho thấy Thiên Chúa quan tâm đến mỗi người, kể cả những chi tiết nhỏ mọn và tưởng chừng như vô giá trị. Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” cho thấy lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa. Ngài không chấp tội cậu con thứ, vì chàng đã bỏ nhà ra đi, ăn chơi hoang đàng. Điều quan trọng là cậu đã mất mà nay được tìm thấy, đã chết mà nay sống lại, như chính lời của cha đã nói.
Cả ba dụ ngôn đều kết thúc rất tích cực. Đó là niềm vui. Không chỉ niềm vui trần thế, mà còn là niềm vui trên trời. Thì ra, khi người tội lỗi sám hối ăn năn và sử chữa sai lầm, thì họ không chỉ đem niềm vui cho gia đình bạn bè, mà trên trời cũng vui mừng vì điều đó. Thiên Chúa luôn quan tâm đến mỗi người và Ngài luôn mong muốn họ hạnh phúc.Chính vì thế mà Ngài đã tạo dựng con người, cho họ hiện hữu cùng với thiên nhiên vũ trụ xinh đẹp.
Nếu Thiên Chúa nhân hậu bao dung thì con người lại không được như thế. Nhân vật người con cả mang tính biểu tượng rất rõ nét. Bối cảnh của bài Tin Mừng là phản ứng và sự ghen tương của những luật sĩ và biệt phái khi thấy Chúa Giê-su gặp gỡ những người bị coi là tội lỗi. Qua dụ ngôn “Người cha nhân hậu”, Chúa Giê-su muốn khẳng định với những người đang chỉ trích Người: cả các bạn nữa, coi chừng các bạn cũng đang là những người lầm lạc, giống như người con cả vậy. Qua giáo huấn của Chúa Giê-su, chúng ta cần nhận ra: mỗi người đều có những điều lầm lạc cách này hay cách khác. Nếu người con thứ bỏ nhà ra đi, thì nó lại sám hối ăn năn; trong khi người con cả vẫn ở với cha mình, thì luôn bất mãn ghen tỵ.
Chúa nhật XXIV thường niên năm nay trùng với lễ suy tôn Thánh giá Chúa Giê-su. Thánh giá là biểu tượng cao quý của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu đến cùng. Từ cây thánh giá, Chúa Giê-su giang tay ôm lấy cả nhân loại và kéo họ vào lòng Chúa Cha. Xin cho chúng ta hiểu ý nghĩa của thánh giá trong đời sống Ki-tô hữu. Vác thập giá đời mình theo chân Chúa Giê-su, với tâm tình yêu mến và phó thác như Người, chúng ta sẽ làm cho thập giá nở hoa.
Yếu đuối và lỗi lầm là thân phận con người, chẳng ai tránh khỏi. Điều quan trọng là biết tỉnh ngộ. “Quay đầu là bờ”, lòng sám hối chân thành bao giờ cũng gặp được sự cảm thông, tạo cơ hội làm lại cuộc đời. Thánh Phao-lô đã chia sẻ những trải nghiệm của bản thân. Ông vốn là người thù ghét và bách hại các Ki-tô hữu, nhưng Chúa đã quy phục ông bằng một cú ngã ngựa. Phao-lô đã tỉnh ngộ và nhận ra những gì mình đang theo đuổi là sai lầm. Chứng từ của Phao-lô cho thấy một điều: dù tội lỗi nặng đến đâu, Thiên Chúa sẽ tha thứ nếu chúng ta thành tâm sám hối.
Đời sống đức tin là hành trình đạt tới hoàn thiện. Mỗi chúng ta hãy nhìn thấy chính mình trong những nhân vật của các dụ ngôn. Phải chăng chúng ta là con chiên lạc hoặc đồng bạc bị mất? Có thể chúng ta là người con thứ bỏ nhà đi hoang, mà cũng có thể là người con cả vẫn nghĩ mình là hoàn hảo mà thực ra đó chỉ là một ảo tưởng?
Như người cha tha thứ cho người con thứ, và “năn nỉ” người con cả bước vào nhà để gặp gỡ em mình, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn và chờ đợi chúng ta trở về. Xin cho chúng ta can đảm sám hối để bước sang trang mới của cuộc đời.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
(Nguồn: tonggiaophanhanoi.org)
—————————
Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh
VINH QUANG THẬP GIÁ
Thánh Giá được ghi trên trán người Kitô hữu khi chịu phép rửa tội, được kêu cầu vào khởi đầu buổi cầu nguyện, Thánh giá được treo trong cung thánh các nhà thờ, đặc biệt được khắc trên cây nến Phục Sinh, với 5 hột hương nhắc lại các vết thương của Đức Giêsu, nến thường được đặt nơi cung thánh mùa Phục Sinh, được trưng bày trong lễ Rửa tội và lễ An táng. Tự nó, cây nến phục sinh mang ý nghĩa biểu tượng tuyên dương Đức Giêsu Kitô sống lại, là ánh sáng thế gian, là niềm hy vọng sống lại của mọi người tín hữu Kitô.
Đêm canh thức Phục sinh nhắc nhớ biến cố vượt qua và được cử hành một cách rất trọng thể. Trên cây nến phục sinh ghi niên hiệu, xác định Đức Giêsu Kitô phục sinh là An-pha và Ô-mê-ga (là 2 mẫu tự Hy-lạp đầu tiên và cuối cùng), Người là chìa khóa của lịch sử nhân lọai và là ánh sáng cho mọi dân tộc. Ngưới chính là Đấng bị đóng đinh thập giá vào chiều ngày Thứ Sáu Thánh và đã sống lại vào sáng sớm ngày Chúa nhật Phục sinh sự việc cho thấy có sự đan quyện giữa vâng lời Cha và yêu thương anh em cho đến chết, thể hiện một tình yêu vô bờ bến. Điều này làm cho con đường thập giá trở nên con đường cứu độ. Tình yêu bước đi trên con đường khổ nạn. Mầu nhiệm thập giá khó hiểu, các nhà đạo đức thường nói thế.
Khổ nhục thập giá và vinh quang phục sinh hòa lẫn với nhau. Chúng ta không ngạc nhiên về hai thực tại thập giá và vinh quang như loại trừ nhau, lại được liên kết, đan quyện vào nhau hay sao ?
Tin Mừng theo thánh Gioan làm chúng ta liên tưởng đến các biểu tượng của một lễ đăng quang huyền bí của Đức Giêsu: đăng quang ngày tử nạn, lên ngai vàng khi bước lên thập giá; đầu đội vương miện bằng vòng gai nhọn và tay cầm vương trượng là cây sậy! Vương vị là bản án tử hình theo luật Rôma được đóng vào đầu cây thập giá INRI (Giêsu Nadarét Vua Do thái). Sự việc xảy ra trên đồi Can-vê công khai trước mặt mọi người, có chính quyền và binh sĩ, có giáo quyền và tín đồ Do thái tham dự, tử tội bị giết chết theo án lệnh của chính quyền Rôma đóng đinh thập giá.
Nhưng điều làm cho cái chết ô nhục trở nên huyền nhiệm, là Đức Giêsu dùng chính cái chết của mình mang lại ơn cứu độ cho muôn dân. Thập giá trở thành nguyên nhân và là dấu chỉ chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, đem lại sự sống và chiến thắng sự chết. Từ nay A-đam mới thế chân A-đam cũ và Cây thập giá đồi Can-vê thế chân cây biết lành biết dữ nơi địa đàng. Ân sủng thế chân án phạt. Biến cố tử nạn khai trương một thế giới mới, một nhân loại được cứu độ.
Cuộc chiến thắng nầy được tiên báo từ thời Môsê lang thang trong sa mạc, khi dân chúng bất trung phản loạn bị rắn lửa bò ra cắn chết. Nhờ lời cầu xin và sự can thiệp của Môsê, theo lệnh của Thiên Chúa, một con rắn được đúc bằng đồng, treo cao lên trong sa mạc để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng liền được chữa lành (x. Bài Đọc 1. Ds 21, 4b-9).
Không phải con rắn đồng làm phép mầu hay có sức ma thuật gì đâu. Nhưng ngước nhìn con rắn đồng là biểu tượng cho lòng tin tuyệt đối đặt vào Thiên Chúa của sự sống và sự tha thứ. Chính Đức Giêsu lấy dấu chỉ con rắn đồng áp dụng cho chính mình : “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (x. Bài Tin Mừng Ga 3, 13-17). Dự ngôn nầy ám chỉ việc Đức Giêsu bị giết trên núi Sọ và được giương cao khỏi mặt đất cho mọi người trông thấy mà kêu khấn. Ai tin thì được ơn cứu độ.
Lý do cái chết được bài Tin Mừng nói rõ : Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người. Tình yêu đã làm thay đổi tất cả ý nghĩa của bản án thập giá. Tình yêu đi trên con đường sự chết làm phát sinh nguồn ơn cứu chuộc. Cho nên thập giá vừa mang ý nghĩa thất bại vừa mang ý nghĩa chiến thắng. Thập giá và vinh quang phục sinh được ghi dấu trong suốt cuộc đời của người Kitô hữu, đến nỗi thánh Phaolô nói: vinh quang của ta là Thánh giá Chúa Kitô, nơi Người ơn cứu độ của ta, sức sống của ta, và sự phục sinh của ta.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Thập giá con thờ lạy Chúa, xin cho con biết chấp nhận con đường thập giá của chính mình, biết chấp nhận quy luật hạt lúa gieo vào lòng đất, mục nát đi để trổ sinh hoa trái theo gương của Chúa Kitô. Amen
Lm. Lu-y Nguyễn Quang Vinh, Giáo xứ Đức An, Pleiku
____________________________
Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên
THÁNH GIÁ ĐỨC KITÔ
Suy niệm
Trong sa mạc, trên đường tiến về đất hứa, dân Israel đi đường mệt nhọc nên nản chí. Họ than trách, phản loạn chống lại Thiên Chúa và ông Môsê. Hình phạt đến ngay: rắn độc xuất hiện cắn chết nhiều người. Nhưng chính trong cơn nguy tử ấy, Thiên Chúa lại ban một lối thoát: “Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì sẽ được sống” (Ds 21,9). Nhưng điều quan trọng không phải là con rắn bằng đồng mà là hành vi đức tin: nhìn lên, tín thác và chờ đợi ơn cứu độ từ Thiên Chúa. Hình bóng này chuẩn bị cho mầu nhiệm thập giá: một dụng cụ của sự chết lại trở nên nguồn mạch sự sống.
Tin Mừng hôm nay nối kết trực tiếp với biến cố trong sa mạc: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14). Hình phạt bị rắn độc cắn chết thật nặng nề, nhưng ơn chữa lành lại rất nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống. Đúng như lời thánh Gioan:“Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37).
Thập giá Đức Kitô được các giáo phụ gọi là Cây Sự Sống, đối lập với Cây Cấm trong vườn Êđen – nơi sự bất tuân của Ađam và Eva đã mang đến án phạt cho nhân loại. Giờ đây, chính nhờ sự vâng phục Chúa Cha, mà Chúa Con mang lại ơn cứu độ. Đây là một mầu nhiệm khôn tả, vì từ một dụng cụ hành hình độc ác nhất do con người sáng chế ra để hành hạ nhau, thì Đức Giêsu đã biến nó thành dấu chỉ của Tình Yêu dâng hiến để cứu chuộc thế gian.
Hình khổ thập giá phơi bày tội ác tầy trời của con người, nhưng đồng thời lại tỏ lộ một tình yêu vô biên của Thiên Chúa, Đấng “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16). Thiên Chúa không cứu độ chúng ta bằng quyền lực, nhưng bằng con đường khiêm hạ và vâng phục. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Đức Kitô đã hạ mình, vâng phục cho đến chết, và là cái chết trên thập giá. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người” (Pl 2,8-9).
Ai cũng biết, càng muốn sống một cuộc đời trọn vẹn, ta càng phải chọn lấy khó khăn và hy sinh hơn là tiện nghi và dễ dãi. Thế nhưng ta lại sợ hãi trước thập giá vì coi như một thất bại. Nhưng thật ra, đón nhận thập giá lại là hành động để biểu lộ một tình yêu sâu xa, và cũng là một cách chọn lấy Thiên Chúa cho cuộc đời mình. Chẳng ai yêu mến Đức Kitô mà lại không yêu lấy thập giá đời mình.
Vì thế, thập giá là con đường tất yếu của người Kitô hữu: không có Phục Sinh nếu không có thập giá, không có vinh quang nếu không có hy sinh. Vinh quang của Kitô hữu không nằm ở thành công, chức vị hay quyền lực, mà nằm ở chỗ biết đón nhận và yêu thương đến cùng. Tuy vậy, cần phân định: có những thập giá “không có Chúa” mà chỉ có “Tôi”. Đó là cái Tôi khép kín trong sự ảo tưởng về chính mình, nhìn ngắm mình, che chắn mình khỏi những đòi hỏi của một tình yêu đích thực, chỉ đem lại phân rẽ và cay đắng. Ngược lại, thập giá của Chúa mở ra bình an, tự do nội tâm và hoa trái bác ái.
Nhìn lên thập giá Chúa Giêsu, ta không chỉ chiêm ngắm một biến cố xa xưa, nhưng còn thấy chính thân phận của mình. Mỗi người đều có những “thập giá” riêng: bệnh tật, thất bại, hiểu lầm, cô đơn, hay những hy sinh thầm lặng trong gia đình và cộng đoàn. Đôi khi ta muốn chạy trốn, nhưng Chúa mời gọi chúng ta “vác thập giá mình hằng ngày mà theo Người” (Lc 9,23).
Thập giá không làm cứng đọng, nhưng để biến đổi: biến đau khổ thành cơ hội thanh luyện, biến thử thách thành bước trưởng thành, biến mất mát thành chỗ trống cho tình yêu Thiên Chúa tràn vào. Khi ta đón nhận thập giá với đức tin, chính lúc đó thập giá trở thành thánh giá, là cây cầu dẫn ta bước vào đời sống vĩnh hằng. Vì thế, mỗi lần ta làm dấu thánh giá không như một thói quen, mà là một lời tuyên xưng: “Tôi tin vào tình yêu Thiên Chúa được tỏ lộ nơi Đức Kitô chịu đóng đinh.”
Xin Chúa cho chúng ta biết ôm lấy thập giá đời mình với lòng tin yêu và hy vọng. Để giữa những cảnh đời ngổn ngang và khổ ải, ta biết yêu thương đến cùng, tha thứ đến cùng, và trung tín đến cùng. Nhờ đó, ta được biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để bước vào vinh quang muôn đời.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Thập Giá là thất bại của Tình Yêu,
vì quà tặng của Thiên Chúa bị khước từ,
nhưng vẫn là thành công của Tình Yêu,
vì đem lại sự sống mới cho đời.
Cây thập giá đã trở thành Thánh giá,
vì tội lỗi sự chết bị tiêu diệt,
ánh sáng đã thắng được bóng tối,
tha thứ đã thắng được hận thù.
Nhìn ngắm Thập giá Chúa trên cao,
con nhận ra ý nghĩa thật nhiệm mầu,
cho đời con một giá trị cao sâu,
mà bấy lâu con không hề cảm thấu,
vì luôn nhìn với cặp mắt âu sầu,
không thấy được mối tình Ngài yêu dấu.
Cho con biết yêu quí thập giá mình,
vui vác lấy hằng ngày đi theo Chúa,
dù có khi phải chịu nhiều đau khổ,
xin cho con đừng tủi hổ ưu phiền,
nhưng an lòng và vững dạ trung kiên,
luôn nước tới với tâm tình tự hiến.
Xin cho con luôn tự hào về thập giá,
là ân ban cao cả của đời con,
là tình mến vẹn tròn con muốn chọn,
để thuộc trọn về Chúa mãi mà thôi.
Xin cho con được sốt sắng thông phần,
với đau thương cuộc trần Chúa đã chịu,
xin cho con sức mạnh của tình yêu,
để đón nhận mọi điều như Chúa muốn. Amen.
Lm. Thái Nguyên
____________________________
Suy niệm 4: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ
“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15).
Quý ông bà và anh chị em thân mến,
Đối với những người không có đức tin hoặc chưa tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian, Đấng thực hiện lời hứa cứu độ của Thiên Chúa dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và con cháu của ngài, thì Thánh Giá là biểu tượng của sự điên rồ và cuồng tín.
Ngắm nhìn Đức Giê-su trên thập giá, chúng ta nhận ra điều gì? Phải chăng nơi ấy chất chứa sự điên rồ? Phải chăng đức tin vào Chúa Chịu Nạn và Phục Sinh là sự cuồng tín?
Thập giá mà không có Đức Giê-su chịu đóng đinh trên đó, thì mãi mãi chỉ là thập giá, không thể là Thánh Giá. Thập giá sẽ trở thành Thánh Giá khi nơi ấy có Chúa hiện diện, một Cứu Chúa chịu nạn, chịu treo trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại và dẫn đưa nhân loại vào một kỷ nguyên mới và một chân trời mới: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15).
Đức Giê-su chấp nhận bị coi là điên rồ, để nhờ sự điên rồ của Người mà nhiều người nhận ra tình yêu cao vời và huyền nhiệm của Thiên Chúa. Nếu chúng ta trở nên “điên rồ” như Đức Giê-su, chúng ta sẽ đạt tới tình yêu siêu việt của Người và chạm tới Tình Yêu Thiên Chúa, để chúng ta được Người thứ tha và sống hạnh phúc bền lâu. Chúng ta có chấp nhận bị xem là kẻ điên rồ và khiến nhiều người không hiểu nổi tình yêu vô vị lợi của chúng ta khi tin và học nơi Đấng Cứu Chuộc trên thập giá không? Ngắm nhìn Thánh Giá, quý vị có cảm nhận được sự chữa lành của Chúa nơi tâm hồn mình không?
“Đạo nào cũng là đạo!” Đạo nào cũng dạy “ăn ngay ở lành”, nhưng chỉ có “Đạo Kitô” là giúp con người có sự sống lại sau khi chết, một khi đã chết thì không bao giờ chết nữa, chẳng cần “đầu thai”, v.v.. Đạo Kitô giúp con người chạm tới sự Chân Thiện Mỹ ở đời này và nên Thánh ở đời sau vì Đức Kitô là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống (Ga 14:6)!
Đức Phật ngồi dưới gốc cây bồ đề, rồi giác ngộ, đạt tới cõi niết bàn. Đức Kitô chịu treo trên cây gỗ, chết đi và sống lại, để trao ban sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài.
Chỉ có Kitô Giáo là tôn giáo mà có vị thần là Thiên Chúa, một Thiên Chúa sẵn sàng làm người, chết thay con người, giúp con người có sự sống vĩnh cửu mà thôi. Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo… không phải là tôn giáo, nhưng có thể coi là “Đạo” – đạo làm người, đạo quân tử – tựa như những bảng chỉ dẫn trên con đường giúp người ta thành nhân. Đạo được coi là tôn giáo khi Đạo ấy có một vị thần (không phải là con người) để tôn thờ, khấn xin.
Từ đó, nếu quý vị để ý các cầu thủ bóng đá, hoặc vận động viên của các môn thể thao khi họ bắt đầu thi đấu, hoặc khi họ giành chiến thắng, thì họ thường làm dấu thánh giá. Vì thế, Thánh Giá không chỉ chữa lành những thương tật nơi tâm hồn con người, nhưng còn là dấu chỉ của niềm tin, của hy vọng, của sự vinh thắng. Tuy nhiên, khi Chúa mời gọi người môn đệ hãy vác thập giá mình mà theo Chúa, thì thập giá ấy rất đa dạng, thường là nỗi khổ đau, oan khiên, bệnh tật, v.v.. Nếu thập giá luôn có Chúa song hành, thì đó chính là thánh giá. Thập giá của con người sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn khi họ ý thức đó là một phần của ơn gọi làm con cái Chúa, khi họ yêu Chúa và tin vào Chúa, khi họ không chối bỏ thập giá nhưng đón nhận với tấm lòng hy sinh và quảng đại.
Chuyện kể rằng có một người kia, trong đêm tối, đi gặp Chúa và than rằng “Chúa ơi, thánh giá của con khó vác quá!” Chúa từ tốn đáp lại rằng “Vậy, con hãy đến kho thánh giá mà chọn cây khác để vác”. Anh đã đi và làm theo lời chỉ dẫn của Chúa. Anh tới kho thánh giá, đặt thánh giá của anh một chỗ, rồi đi tìm và chọn lựa cây thánh giá hợp với anh. Anh tìm đủ loại thánh giá, nào là loại bằng gỗ, bằng bùn, bằng sắt, bằng đá… Tìm hoài nhưng chẳng thấy cây nào thích hợp! Loại gỗ thì vác đau vì có dằm đâm vào vai, loại sắt thì quá nặng nề, loại bùn thì nhẹ nhưng khó vác vì cứ trơn tuột, loại đá không những nặng mà còn to, vác được vài bước là ngã quỵ. Đi một vòng, cuối cùng anh tìm được cây thánh giá vừa ý. Anh chạy tới khoe với Chúa rằng “Con tìm được rồi, Chúa ơi. Vui quá! Đây là cây thánh giá hợp với con nhất. Con chọn nó!” Chúa vẫn từ tốn trả lời anh: “Con ơi, con chọn kỹ chưa? Nếu con quyết định chọn cây đó, thì Ta bảo con biết, đó chính là cây thánh giá ban đầu của con, cây thánh giá con đã than phiền là khó vác!”
Chúc quý vị cầu nguyện sốt sắng!
(Lm Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ – Giáo xứ Hoa Lư, Pleiku)