Giàu Và Nghèo Trong Kinh Thánh – Dưới Ánh Sáng Lời Chúa (Bài 143)
Giàu Và Nghèo Trong Kinh Thánh – Dưới Ánh Sáng Lời Chúa (Bài 143)
Bài 143: Giàu và nghèo trong Kinh Thánh
Chúa nhật 26 Thường Niên Năm C
Tin Mừng theo thánh Lu-ca 16,19-26
19 Đức Giê-su nói với người Pha-ri-sêu dụ ngôn sau đây : “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, 21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24 Bấy giờ ông ta kêu lên : ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát ; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !’ 25 Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được’”.
Trong Tin Mừng Chúa nhật 26 Thường niên này, thánh Lu-ca thuật lại dụ ngôn về một ông nhà giàu và một người nghèo tên La-da-rô. Dụ ngôn này tiếp nối dụ ngôn Chúa nhật tuần trước khi Chúa Giê-su kể chuyện về người quản gia bất lương rồi sau đó nhấn mạnh “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” ; và lúc bấy giờ, “Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su” (Lc 16,1-18).
Trong câu chuyện này, Lu-ca sẽ khéo léo chuyển từ chủ đề tiền bạc sangchủ đề công lýbằng cách mô tả hai con người hoàn toàn trái ngược nhau : một người giàu có và một người nghèo khó ; một người “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, và một người “mụn nhọt đầy mình, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” ; một người thuộc một tầng lớp xã hội cao trọng và một người thì đói kém, đầy thương tích và chỉ có những con chó làm bạn. Người giàu được hưởng bao của cải, địa vị xã hội, tiệc tùng… trong khi người nghèo chỉ nhận bao lời nguyền rủa, sống đói kém.
Ngữ cảnh và từ vựng mà thánh Lu-ca sử dụng trong câu chuyện mời gọi chúng ta đừng giản lược dụ ngôn này theo một cách diễn giải duy nhất là lên án sự thờ ơ của kẻ giàu đối với người nghèo, rồi phải chuốc lấy hình phạt chết chóc. Nếu đặt lại câu chuyện trong bối cảnh thời đó, ông nhà giàu mặc áo tía vải lanh, toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày mở tiệc, có thể Chúa Giê-su đã ám chỉ các thượng tế trong Đền Thờ, nơi những người ô uế không được phép bước vào qua hình ảnh La-da-rô bị gạt ra ngoài. Như vậy, người giàu ở đây được mô tả là một người công chính, sống thờ phượng tuân phục Chúa trong Đền Thờ, còn người nghèo lại bị xếp vào hàng ô uế phàm tục và bị gạt ra bên lề xã hội.
Như vậy, theo quan điểm xưa, người giàu nhận ơn lành của Chúa là nhờ tuân thủ lề luật, còn người nghèo thì như thể bị nguyền rủa trước mắt người đời vì tội lỗi bản thân. Dụ ngôn này có một điểm đáng chú ý : người nghèo là người duy nhất có danh tánh La-da-rô (Λάζαρος)nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng cứu giúp tôi”.
Bằng cách gọi tên người nghèo là La-da-rô, Chúa Giê-su cho thấy mặc dù ông không được hưởng điều gì ở cõi đời tạm bợ, nhưng ông lãnh nhận được một phúc lành vĩnh cửu sau khi chết : ông được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham, Còn người giàu vẫn vô danh không tên tuổi và phải ở dưới âm phủ. Vậy người giàu đó là ai ? Dường như đó là số phận của Pha-ri-sêu, của con người, của chính độc giả qua mọi thời đang được Chúa chất vấn và giáo huấn về hai thực tại phải chọn một : phù du phàm tục hay vĩnh cửu thánh thiêng.
Trong dụ ngôn, cái chết là điểm chung duy nhất giữa La-da-rô và người giàu, nhưng diễn biến sau khi chết thì tương phản : La-da-rô được đem vào lòng Áp-ra-ham vốn là hình ảnh truyền thống của người công chính, cha của những người tin. Còn người giàu được chôn cất và ở lại trong âm phủ (tiếng Hy-lạp là ᾅδης, tiếng Híp-ri là שְׁאוֹל), là nơi ở của kẻ chết. Người nghèo bị hạ xuống trong mắt loài người thì được nâng lên, còn kẻ quyền thế đã bị hạ xuống. Khoảng cách giữa giàu nghèo trở thành một vực thẳm lớn không thể vượt qua. Nói cách ngắn gọn, người giàu chìm vào cõi chết vì lo hưởng thụ, dửng dưng với đồng loại, còn người nghèo thì được Chúa đoái nhìn ủi an. Trong dụ ngôn, cần lưu ý rằng Chúa Giê-su đã nói về kẻ giàu người nghèo, chứ không dùng từ tội nhân hay ngườicông chính. Dụ ngôn cố tình không muốn đi sâu vào kiểu phân biệt này, vì mỗi dụ ngôn của Chúa Giê-su đều nhằm mục đích chất vấn và cải hóa người nghe, đặt người tin vào tiến trình hoán cải liên tục trong cuộc sống.
Kinh Thánh nói nhiều về sự nghèo khổ và đưa ra rất nhiều ví dụ về người nghèo. Bởi vì sự giàu có vật chất không phải là dấu hiệu duy nhất cho thấy phước lành Chúa ban, cho nên người nghèo cũng đâu phải là dấu hiệu cho thấy Chúa bỏ rơi ai. Thực tế, người ta có thể nghèo về vật chất nhưng giàu về tinh thần vì Chúa đã từng nói : “Ta biết nỗi gian truân, và cảnh nghèo khó của ngươi, nhưng thật ra ngươi giàu có… Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi sắp phải chịu… Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2,9-10). Dĩ nhiên, đôi khi nghèo đói là kết quả của những lựa chọn sai lầm. Tác giả sách Châm ngôn đã từng cảnh báo lười biếng sẽ dẫn đến nghèo đói : “Ngủ một chút, chợp mắt một chút, khoanh tay nằm một chút, là cái nghèo sẽ đến với bạn như tên du thủ du thực, cảnh bần cùng sẽ đột nhập như người có vũ trang” (Cn 24,33-34) ; hoặc “kẻ chạy theo chuyện phù phiếm sẽ phải chịu bần cùng” (Cn 28,19), và nhất là khi người ta “coi khinh lời nghiêm huấn ắt phải nghèo phải nhục, tuân giữ lời sửa dạy hẳn sẽ được hiển vinh” (Cn 13,18). Tác giả sách Châm ngôn còn mô tả người nghèo là những người khiêm tốn עֲנָוִ֖ים (ʿănāwîm), luôn biết khẩn nài cùng Thiên Chúa : “Ngài đừng nỡ chối từ trước khi con nhắm mắt : Xin đẩy xa con lời dối trá và chuyện lọc lừa. Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có ; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con” (Cn 30,7-9).
Chúng ta hãy cùng đọc lại giáo huấn Kinh Thánh về Giàu và Nghèo.
I. Trong Cựu Ước
❖ Con người và muôn loài là do Thiên Chúa dựng nên phải được phát triển hài hòa. Khi dân Ít-ra-en định cư trong đất Ca-na-an, dân phải được phân phối đất đai công bằng, và luật còn quy định là vào “năm thứ năm mươi là năm thánh. Năm toàn xá đó, mỗi người sẽ trở về phần sở hữu của mình. Nếu bán cái gì cho người đồng bào hoặc mua cái gì từ tay người đồng bào, thì đừng ai làm thiệt hại người anh em mình” (Lv 25,10-14). Sắc lệnh này dạy cho mỗi tín hữu biết tôn trọng quyền sống của tha nhân, biết thực thi lẽ công bằng, tránh gây thiệt hại cho đồng loại.
❖ Trong niềm tin của người Ít-ra-en, sự nghèo đói phải bị loại bỏ và Thiên Chúa luôn quan tâm yêu thương người bất hạnh. Tất cả những ai túng thiếu, đặc biệt là góa phụ, trẻ mồ côi và ngoại kiều đều là đối tượng được Chúa và dân Ít-ra-en chăm sóc, theo các quy định cụ thể của Lề Luật. Bất kỳ ai đói đều có quyền dùng nho hoặc bông lúa hái từ ruộng của người khác để xoa dịu cơn đói, nhưng không được lấy bỏ vào giỏ của mình mang đi (Đnl 23,25-26). Người nghèo thì được phép mót lúa sau mùa gặt (Lv 23,22). Sản phẩm tự nhiên từ đất đai trong thời sa-bát sẽ thuộc về cộng đồng, và ai nấy đều được hưởng dùng (Lv 25,4-12).
❖ Luật Chúa yêu cầu “Nếu giữa anh em, trên đất mà ĐỨC CHÚA ban cho anh em, có một người anh em nghèo, thì anh em đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng ; nhưng phải mở rộng tay, và cho họ vay mượn tất cả những gì họ thiếu” (Đnl 15,7-10). Người nghèo làm việc cho một ông chủ trong một số năm nhất định nhưng sẽ được tự do ra đi vào năm Sa-bát. Luật còn khuyến khích người giàu mời người nghèo đến liên hoan trong các dịp lễ (Đnl 16,11-14), không cho phép áp bức người yếu thế nhưng phải xét xử công minh và tôn trọng phẩm giá con người.
❖ Thời kỳ suy thoái của Ít-ra-en được diễn giải là do dân Ít-ra-en vi phạm luật công bằng. Ngôn sứ A-mốtđã từng lên tiếng bảo vệ công lý trong xã hội, vì làm sao có thể tuyên bố mình tin vào Thiên Chúa mà lại dung túng cho sự giàu có xa hoa bằng cách bóc lột người nghèo ? A-mốt không ngần ngại lên án nạn tham nhũng và bất công xã hội, dám lên tiếng đòi hỏi tôn trọng phẩm giá và quyền lợi cho những người yếu thế דַּלִּ֔ים (dallîm), những người khiêm nhu (ʿănāwîm), người nghèo khổ אֶבְיוֹן(ʾeḇyôn) đã bị kẻ quyền thế giàu có áp bức chà đạp không thương tiếc (Am 5,7-12). Thiên Chúa của A-mốt luôn đứng về phía người nghèo, Người đã gầm lên như sư tử cho người ta thức tỉnh.
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy các tác giả đề cao nhiều mẫu mực trong giới giàu có. Ví dụ như Áp-ra-ham : Mặc dù đầy quyền lực với mọi tài sản trong tay (St 13,2 ; 24,35), nhưng tấm lòng ông không bị hư hoại bởi sự giàu có. Tương tự, Đa-vít trong tư cách là vua, người giàu có và quyền lực nhất thời các vua, trong sự giàu có của mình, ông đã nhận thức được nguồn gốc của nó mà ca tụng Thiên Chúa : “Lạy CHÚA, Ngài vĩ đại quyền năng, Ngài oai vệ, vinh quang, rực rỡ, vì mọi sự trên trời dưới đất thuộc về Ngài. Ngài nắm giữ vương quyền, lạy CHÚA, và địa vị tối cao, vượt trên tất cả. Ngài cũng là nguồn phú quý vinh quang. Chính Chúa làm bá chủ muôn loài : nắm trong tay dũng lực quyền năng, nhờ tay Ngài, tất cả lớn lên và mạnh sức” (1 Sb 29,11-12).
Đặc biệt, Kinh Thánh còn kể đến ông Gióp, một nhân vật nổi tiếng với sự giàu có và đức hạnh. Là người giàu nhất phương Đông (G1,3), khi bị mất hết tài sản, bị bủa vây bởi những đau khổ tai ương nặng nề, ông đã thốt ra những lời oán trách Thiên Chúa, và cuối cùng ông được Chúa dạy dỗ để bền lòng tín trung.
Chính trong những câu chuyện này, chúng ta hiểu được thực tại về sự giàu có, vừa là một phước lành vừa là một thách đố trên hành trình sống đức tin.
II. Trong Tân Ước
❖ Nghèo đói và tật nguyền thường bị đoán xét là hậu quả của tội lỗi cá nhân. Chẳng hạn Tin Mừng Gio-an 9,1-3 thuật lại : “Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người : “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta ?”. Thời Chúa Giê-su, dân chúng bị áp đặt nhiều loại thuế nặng nề, nên đa phần họ sống trong nghèo khó, trong khi một số khác lại được hưởng lợi về mặt tài chính từ việc hợp tác với đế chế Rô-ma. Vì thế, thư Gia-cô-bê 2,1-7 từng lên án nạn kỳ thị giàu nghèo : “Anh em hãy nghe đây : nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao ? Thế mà anh em, anh em lại khinh dể người nghèo !”
❖ Theo quan điểm thời đó, giàu có là một phước lành và nghèo đói là điều đáng nguyền rủa, nhưng ý định của Chúa lại cao cả khôn lường khi sử dụng cả hai để dạy con người biết thỏa lòng và tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Chính Chúa Giê-su đã nêu gương hủy mình ra không như thánh Phao-lô từng xác tín : “Đức Giê-su Ki-tô vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8,9). Theo lời dạy của Chúa Giê-su, giàu của cải vật chất không bị xem là xấu xa hay nguy hiểm, nhưng “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3).
❖ Thấm nhuần giáo huấn của Chúa Giê-su, trong Hội Thánh tiên khởi, “tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ” (Cv 2,44-46). Thánh Phao-lô luôn dặn dò : “Nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ. Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại ; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh huỷ diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6,8-10).
Câu chuyện về người phú hộ và người nghèo La-da-rô minh họa cho tính chất tạm bợ của sự giàu có. Người giàu hưởng thụ giàu sang phú quý trong cuộc sống ngắn ngủi nhưng rồi phải chịu đời đời trong âm phủ, trong cõi chết. Còn La-da-rô chịu đựng sự tủi nhục của cảnh nghèo cơ cực, nhưng được an ủi trong lòng Áp-ra-ham công chính đến muôn đời. Thánh Phao-lô nhắn nhủ Ti-mô-thê : “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1 Tm 6,17-19). Có tiền không phải là xấu, nhưng yêu tiền tham tiền mới là xấu. Chính Phao-lô trong chức vụ của mình đã nỗ lực quyên góp tiền cho người nghèo ở Giê-ru-sa-lem (Rm 15,25-29), và nhắc các giáo đoàn phải quan tâm tiếp đãi các tín hữu nghèo nhất (Rm 12,13).
Tóm lại, trong Cựu Ước, món quà của cải đòi hỏi mỗi người sống trách nhiệm về lòng nhân từ rộng lượng, liên đới chia sẻ cho những người kém may mắn. Còn trong Tân Ước, sự giàu có và nghèo khổ được mô tả mở rộng, bao gồm cả vật chất lẫn tinh thần, như Chúa Giê-su dạy : “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,19-21).
Bản chất sự giàu có không phải là tội, nhưng tài sản của cải, dù là vật chất hay tinh thần, sẽ trở nên phù du khi con người lấy nó thay thế Chúa. Điều gây ra tội chính là lòng ham muốn vô độ, là niềm kiêu hãnh tự tại và lệ thuộc vào của cải để mưu cầu hạnh phúc bản thân, bất chấp sự sống của tha nhân và muôn loài. Tác giả thơ gởi tín hữu Híp-ri 13,5 đã nhẹ nhàng khuyên bảo “Trong cách ăn nết ở, anh em đừng có ham tiền, hãy coi những gì mình đang có là đủ, vì Thiên Chúa đã phán :Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi !”
Vậy, người Kitô hữu sẽ luôn ý thức rằng giá trị của một con người không được đo lường tính toán bằng tài sản vật chất, nhưng bằng sự phong phú sống động trong đức tin và mức độ tình yêu dành cho Chúa và tha nhân. Một khi tâm hồn tràn đầy lòng biết ơn và hài lòng với những gì Chúa ban, người ta có khả năng sử dụng của cải như một công cụ để làm điều Chúa muốn. Quả vậy, giàu có như một thực thể hai mặt : vừa là một phước lành minh chứng cho ân sủng dồi dào của Chúa, vừa là một rủi ro tiềm ẩn có thể khiến con người dễ rơi vào cạm bẫy. Giáo huấn của Chúa Giê-su trong Tin Mừng Lu-ca vì thế nhấn mạnh đến cách sử dụng của cải và trách nhiệm quản lý tài sản, hướng dẫn người ta sống rộng lượng và biết quan tâm đến phúc lợi cộng đồng. Giàu có không phải là điều kiện để trở thành Kitô hữu, nhưng Kitô hữu được kêu gọi sẵn sàng khước từ mọi sở hữu để luôn dành ưu tiên sống mối tương quan mật thiết với Chúa, vì chỉ có Chúa là duy nhất và là tất cả. Chúa không muốn con người trở nên nghèo túng nhưng Chúa muốn con người phải biết mưu cầu thịnh vượng phong phú về các giá trị thiêng liêng vĩnh cửu : “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
Nữ tu Maria Lê Thị Thanh Nga – Dòng Đức Bà Nữ Kinh Sĩ Thánh Âu Tinh