Suy Tư Về Tông Huấn “Dilexi Te” Và Sứ Mạng Truyền Giáo Hôm Nay

1. Vấn đề của mọi thời

Tông huấn “Dilexi Te” như một lời kêu gọi hãy rút ngắn khoảng cách giàu nghèo (s.10), hãy hội nhất hai khuynh hướng đang tồn tại bấy lâu nay trong đời sống người Kitô hữu như giữa việc “trọng nam khinh nữ” (s.12), giữa thương hại và thấu cảm (s.14), giữa đạo đức và thực hành đức tin (s.15), giữa tình yêu – Đức tin và sự công bình (s.17), giữa đời tu và đời sứ vụ (s.32, 42, 49), giữa giữ Đạo và sống Đạo (s.111-114), v.v.. Đức tin và Tình yêu cần được thể hiện bằng hành động thiết thực. Tất cả những việc chúng ta làm đều đặt nền trên tình yêu người nghèo và tình yêu đặt nền trên sự công bằng, thì việc làm đó sẽ có chứng từ loan báo Tin Mừng và làm cho Tin Mừng có giá trị cứu rỗi mạnh mẽ (s.36):

“Bởi bản tính, tình yêu Kitô giáo mang tính ngôn sứ, làm nên những phép lạ và không biết giới hạn. Nó làm cho điều tưởng chừng không thể trở thành hiện thực. Tình yêu trước hết là một lối nhìn đời và một cung cách sống. Một Giáo hội không đặt ranh giới cho tình yêu, không biết ai là kẻ thù để chiến đấu nhưng chỉ có người nam và người nữ để yêu thương, đó là Giáo hội mà thế giới hôm nay đang cần” (s.120).

Để thể hiện tình yêu bằng hành động cụ thể như Thánh Inhã Loyola đã từng kinh nghiệm và được viết lại trong cuốn Linh Thao của ngài rằng “tình yêu cốt thể hiện ở hành động hơn là lời nói…” (x. Linh Thao, s.230), đòi buộc chúng ta phải cảm nghiệm tình yêu của Chúa, nhận thức sâu xa trong tâm thảm rằng Chúa yêu chúng ta bằng một tình yêu muôn thuở, tình yêu không đổi thay… (x. Gr 31:3). Nói cách khác, tình yêu thường mang tính song phương: Chúa yêu tôi và tôi yêu Chúa, tôi yêu Chúa qua người anh chị em xung quanh và họ cảm nhận tình yêu ấy để nhận ra Chúa cũng yêu họ qua người khác. Được như thế, chúng ta mới mong sống và đáp trả tình yêu ấy bằng hành động yêu thương vô vị lợi như Chúa đã yêu chúng ta – “Dilexi te” (Kh 3:9)!

2. Những khuynh hướng tồn tại lâu đời và trở thành “căn bệnh mãn tính”

Giáo hữu: Khuynh hướng đạo đức bình dân (siêng năng đọc kinh, lần chuỗi Mân Côi và Lòng Thương Xót Chúa, tham dự Thánh lễ, am tường các nghi lễ và nghi thức Phụng vụ…) nhưng lại thiếu dấn thân phục vụ bác ái xã hội hoặc truyền giáo (x. Dilexi Te, s.112); khuynh hướng dấn thân truyền giáo hoặc làm bác ái xã hội thì lại thiếu đời sống cầu nguyện và Bí tích (x. Dilexi Te, s.114). Hai khuynh hướng nghịch chiều này làm cho Tin Mừng bị suy yếu, và việc loan báo Tin Mừng kém hiệu quả, đối tượng được phục vụ chưa nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi người tông đồ, chưa thấu cảm tình thương của người đến san sẻ ơn huệ Chúa ban, chưa đi vào lòng người và để lại dấu ấn sâu đậm… (Dilexi Te, s.11-15).

Bên cạnh đó, giữa xã hội nhập nhằng tối sáng, thật giả lẫn lộn…, người tín hữu khi sống đức ái cũng cần phải biết phân định (Discreta Caritas). Sự phân định buộc phải đặt nền trên việc cầu nguyện. Vì thế, suy cho cùng, việc thực thi bác ái luôn song hành với việc cầu nguyện và phân định ý Chúa.

Linh mục – Tu sĩ: co cụm trong các “biên cương cũ”, chủ yếu chu toàn Mục vụ Bí tích, bận tâm nhiều đến cơ sở vật chất (nhà thờ, nhà xứ, nhà mục vụ…), ít ra khỏi bốn bức tường của tu viện hoặc nhà xứ, trong khi “các biên cương mới” đang chờ đợi các ngài (Dilexi Te, s.25-29, 113).

“Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2:15-16)

“Hơn nữa, vì chúng ta bận tâm đến những nhu cầu của riêng mình, việc nhìn thấy một người đang đau khổ khiến chúng ta lo lắng. Nó khiến chúng ta bất an, vì chúng ta không có thời gian để lãng phí cho những vấn đề của người khác. Đây là những triệu chứng của một xã hội không lành mạnh. Một xã hội tìm kiếm sự thịnh vượng nhưng lại quay lưng lại với đau khổ. Xin cho chúng ta đừng sa vào vực sâu như vậy!” (Dilexi Te, s. 107)

Các “biên cương mới” này như một cách định nghĩa lại ý niệm “người nghèo của Tin Mừng” không chỉ đơn thuần là người nghèo về vật chất (cơm áo gạo tiền, nhà cửa dột nát, thất nghiệp…) nhưng còn là những người bị loại trừ trong xã hội, người già neo đơn, di dân, thanh thiếu niên nghiện mạng xã hội – games online, nạn nhân của chiến tranh – dịch bệnh – thiên tai – nhân tai – môi trường sống ô nhiễm (thủy điện, nhiệt điện, khí thải độc hại, chất thải hóa học, v.v..):

 “Quả thật, có nhiều hình thức nghèo: nghèo vì thiếu phương tiện vật chất để sống còn, nghèo vì bị gạt bên lề xã hội nên không thể cất tiếng cho phẩm giá và khả năng của mình, nghèo luân lý và thiêng liêng, nghèo văn hóa, nghèo do yếu đuối hay mong manh về mặt cá nhân hoặc xã hội, nghèo vì không có quyền, không có chỗ đứng, không có tự do.” (Dilexi Te, s.9)

3. Mẹ Maria trở nên phương dược trị căn bệnh mãn tính nói trên

Chiêm ngắm hình ảnh Mẹ Maria vội vã lên đường thăm viếng người chị họ Elizabeth (x. Lc 1:39-45), chúng ta sẽ bắt gặp sự hội tụ của hai khuynh hướng nói trên, và Mẹ làm cho cả hai khuynh hướng này trở nên một hướng đi, một công thức giải gỡ bài toán nan giải cho nhiều môn đệ Chúa Kitô gặp bế tắc trong việc làm chứng cho Tin Mừng.

Thứ nhất, Mẹ là con người cầu nguyện. Mẹ thường xuyên suy đi gẫm lại Lời Chúa và các biến cố xảy đến trong đời (x. Lc 1:19; 2:51). Nhờ có đời sống cầu nguyện, Mẹ dễ dàng nhận ra ý Chúa, nghe được tiếng Chúa và mau mắn đáp lời “xin vâng” để cộng tác vào kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa.

Thứ đến, Mẹ thể hiện việc “xin vâng” bằng hành động cụ thể là đi thăm viếng người chị. Việc thăm viếng này chất chứa một tình yêu tinh ròng. Bởi lẽ, bà Elizabeth là chị họ, chứ không phải chị ruột, và hai căn nhà của hai chị em cách nhau khoảng 120km. Đường xá thời đó không như bây giờ: sỏi đá, gồ ghề, phương tiện đi lại chủ yếu là đi bộ. Việc Mẹ đi thăm viếng người chị họ ở một nơi xa xôi, hai miền Nam Bắc, như diễn tả gia cảnh của vợ chồng ông Dacaria và bà Elizabeth thuộc dạng neo đơn, cần được thăm viếng, đỡ nâng, săn sóc. Đây chính là khuôn mặt của “người nghèo Tin Mừng” mà Tông huấn “Dilexi Te” nhắc tới – những người già neo đơn, người bị gạt ra bên lề xã hội (x. Lc 10:29-37, Dilexi Te s.105-17).

Hơn thế nữa, Mẹ Maria mới hoài thai nên cần phải thận trọng trong việc đi lại để không bị sẩy thai. Thế nhưng Mẹ không ngại điều đó, sẵn sàng cất bước lên đường trong sự vội vã. Mẹ tín thác vào Thiên Chúa và tình yêu của Mẹ dành cho người neo đơn vượt thắng sự an toàn của bản thân, như tâm tình và lối sống của ĐTC Phanxicô trong Tông huấn “Evangelii Gaudium” số 49: “Tôi thà sống trong một Giáo hội phải chịu bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đi ngoài đường, còn hơn là sống trong một Giáo hội bệnh hoạn vì cố bám víu và giam hãm vào sự an toàn của chính mình” (I prefer a Church which is bruised, hurting and dirty because it has been out on the streets, rather than a Church which is unhealthy from being confined and from clinging to its own security)”.

Cuối cùng là cuộc gặp gỡ thánh thiêng giữa Mẹ và người chị họ. Thánh thiêng là vì họ không có gì trao cho nhau, chỉ có san sẻ Thánh Thần và giới thiệu hài nhi Giêsu cho gia đình người chị. Và đây không chỉ là cuộc gặp gỡ thánh thiêng nhưng còn là nghĩa cử của tình yêu tuyệt đối, yêu đến cùng, chẳng tính toán, không vụ lợi… qua việc Mẹ ở lại suốt ba tháng với người chị.

Tin Mừng không nói việc Mẹ Maria trở về nhà sau hay trước khi bà Elizabeth hạ sinh Gioan, nhưng với tính cách và con người của Mẹ thì có lẽ Mẹ chọn ở lại cho đến khi người chị mãn nguyệt khai hoa – “mẹ tròn con vuông” rồi mới trở về nhà mình.

Như thế, hình ảnh Mẹ Maria đi thăm viếng người chị họ như một minh chứng sống động cho việc sống tình yêu bằng hành động cụ thể, và trở thành công thức bất biến để giải bài toán truyền giáo và bác ái xã hội trong thế giới hôm nay và trong hoàn cảnh ngày càng giảm sút về ơn gọi truyền giáo của Giáo Hội. Công thức đó là: cầu nguyện – nhận ra ý Chúa – đáp trả tiếng Chúa – mau mắn lên đường – gặp gỡ – san sẻ – ở lại – đồng hành – chia tay trở về – lại ra đi tới các biên cương mới.

Ngày nay, nhiều người mau mắn lên đường để “ban phát” hơn là “san sẻ” – thương cảm – đồng hành (s.19-20, 115-120). Chỉ có Thiên Chúa là ban phát cho con người, còn con người thì nhận lãnh rồi san sẻ lại cho nhau. Thiên Chúa chọn ở lại với con người qua các Bí tích, đặc biệt là bữa tiệc Lời Chúa và Thánh Thể trong mỗi Thánh Lễ, còn con người thì lại có khuynh hướng “nhốt Chúa lại” trong một không gian và thời gian cố định nào đó, để rồi trở nên một con người hai mặt, chẳng hạn như đọc kinh – cầu nguyện mỗi ngày để chu toàn bổn phận và không vi phạm luật Giáo hội nhưng không sống chứng tá bằng hành động yêu thương cụ thể, đến tham dự Thánh Lễ là một con người đạo đức nhưng kết thúc Thánh Lễ trở về với cuộc sống đời thường thì sống như một người vô Đạo. Chính vì thái độ sống đức tin như thế, họ không cảm nhận Chúa cùng đồng hành với họ, chưa nhận ra Chúa hiện diện trong họ và nơi người khác. Và như thế, họ sẽ dễ dàng thực thi bác ái ở bề mặt, thích được người khác chú ý, chụp hình quay phim rồi đăng lên mạng xã hội, tạo sự chú ý của dư luận để nhận lời khen tặng, v.v.. Nếu cứ như thế, làm sao người nhận sự bác ái có thể cảm nhận tình yêu chân thành của người thực thi bác ái, làm sao chuyển tải thông điệp yêu thương – thấu cảm – sẻ chia, làm sao họ có thể ở lại lâu giờ hoặc lâu ngày với những người nghèo khó khi họ viếng thăm, làm sao họ thương cảm và đồng hành lâu dài với những số phận bất hạnh, hẩm hiu…, làm sao Tin Mừng có thể vang vọng tới mọi ngõ ngách, làm sao có thể liên tục đi ra những “biên cương mới”!?

4. Vận hành Công thức của Đức Mẹ

Vì lẽ đó, trong Năm Mục Vụ mới, có lẽ các giáo xứ nên thường xuyên tổ chức các buổi cầu nguyện và tĩnh tâm cho các đoàn thể (Giáo lý viên, Lễ sinh, Legio Mariae, Lòng Chúa Thương Xót, Bác ái Xã hội (Caritas), Loan Báo Tin Mừng, v.v..). Khi họ có Chúa, kinh nghiệm Chúa chạm vào tâm hồn họ, họ được biến đổi sâu xa và được thổi “lửa truyền giáo”, gia tăng “hồn tông đồ”, thì họ sẽ không thể ngồi im một chỗ, như Chúa Giêsu từng nói: “Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” (Lc 19:40)

Các cha xứ hãy quan tâm và ưu tiên đến việc đồng hành với các giáo hữu nói chung và các đoàn thể nói riêng, nhất là đồng hành thiêng liêng, sau đó, hãy mở các khóa bồi dưỡng đức tin, cuối cùng là trở thành cầu nối để liên kết các đoàn thể, giúp họ biết cách cộng tác và chung tay loan báo Tin Mừng.

Nhân tiện cũng xin nói thêm: Một trong những phương pháp được Giáo hội sử dụng phổ biến hiện nay là “Đối thoại trong Thánh Thần”. Phương pháp này dù không phải là tối ưu hoặc duy nhất, nhưng lại được Thượng HĐGM Thế Giới sử dụng và HĐGM Việt Nam cũng sẽ sử dụng phương pháp này trong các cuộc họp của các ngài. Phương pháp này có một điểm nổi bật là ai tham dự đều được nói và được lắng nghe, tránh hiện tượng tranh cãi sôi nổi, tránh những phát biểu bốc đồng bộc trực, tránh áp đặt tư tưởng và đường lối của bề trên lên bề dưới, v.v..

Việc loan báo Tin Mừng không chỉ dừng lại ở các bàn họp hoặc nhà nguyện của Giáo xứ, nhưng cần xúc tiến ngay, đi ra các “biên cương mới”, thăm viếng và ở lại lâu giờ, thậm chí là ở lại nhiều ngày, với những người bạn mới. Nếu biên cương mới của Giáo xứ khá rộng thì hãy khoanh vùng lại, chẳng hạn như tháng này đi thăm viếng người già neo đơn, tháng sau đến với người khuyết tật, tháng tới đến với người vô gia cư, tháng tới nữa đi thăm viếng người bên lương, v.v..

5. Cùng bước đi trong Thần Khí

Hãy lên đường như Mẹ Maria, hành trang không thể thiếu là con người đầy ắp Thánh Thần và con tim tràn ngập Chúa Giêsu.

Hãy đến với người nghèo và người cần được nghe biết Tin Mừng như Chúa Giêsu: “Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8:9; x. “Dilexi Te”, s.18- 23).

Hãy tập sống đơn giản để thảnh thơi và thong dong tiếp cận người nghèo và giúp người nghèo dễ dàng đến gần chúng ta, vì chúng ta thuộc về Giáo hội, một Giáo hội của người nghèo và thuộc về người nghèo (Dilexi Te, s.35), một Giáo hội trải dài suốt hai ngàn năm có vô số các chứng nhân sống nghèo khó để loan báo Tin Mừng cho người nghèo như thánh Laurenxô, các Giáo phụ (Ambrôsiô, Gioan Kim Khẩu, Augustinô, v.v.), thánh Gioan Thiên Chúa, thánh Biển Đức, thánh Phanxicô Assisi, thánh Đaminh de Guzmán, thánh Camillô de Lellis, thánh Gioan Lasan, thánh Têrêxa Calcutta, v.v.. (x. Dilexi Te, s.37-77).

Sau cùng, một thách đố luôn tồn tại trong Giáo hội nói chung, và tại Việt Nam, trong văn hóa và con người Việt Nam, đó là sự cộng tác, cùng làm việc chung. Người Việt không dễ làm việc chung với nhau. Trong Giáo hội, có nhiều Dòng tu. Mỗi Giáo phận có nhiều cộng đoàn tu trì hiện hữu. Mỗi Giáo xứ có nhiều hội đoàn. Tuy nhiên, việc các Dòng tu, các cộng đoàn tu trì, các đoàn thể cùng làm việc chung với nhau lại là một thách đố không nhỏ. Chúng ta chưa thể tạo nên sức mạnh vĩ đại bằng sự cộng tác đa dạng và đa phương, giữa các đoàn thể trong Giáo xứ, các cộng đoàn tu sĩ và linh mục coi xứ trong Giáo phận, các Dòng tu trong Giáo hội, chứ chưa nói đến việc cộng tác giữa Công giáo với các tôn giáo bạn. Ai cũng có sứ mạng riêng, có đặc sủng riêng, có linh đạo riêng… nhưng mọi người đều có chung một Chúa, một đức tin, một Hội Thánh. Dù thuộc Dòng tu nào hay Giáo phận nào, đặc sủng hoặc linh đạo nào đi nữa, tất cả đều có chung sứ mạng là loan báo Tin Mừng, là thực thi lệnh truyền bất hủ của Chúa Phục Sinh (x. Mc 16:15).

Thực thế, “bất cứ cộng đoàn Giáo hội nào nếu nghĩ mình có thể thảnh thơi đi đường riêng mà không có mối bận tâm sáng tạo và sự cộng tác hiệu quả nhằm giúp người nghèo sống xứng nhân phẩm và vươn tới mọi người thì cộng đoàn ấy cũng sẽ có nguy cơ suy sụp, cho dù họ nói nhiều về các vấn đề xã hội hay chỉ trích chính quyền. Họ sẽ dễ trôi dạt vào một thứ thế tục tinh thần được ngụy trang bằng thực hành đạo đức, những cuộc họp vô bổ và lời nói sáo rỗng.” (Dilexi Te, s.113)

“Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở của tha nhân” (T. Augustinô).

“Chúa không cần việc làm của chúng ta. Ngài chỉ muốn tình yêu thúc đẩy những việc làm ấy” (T. Têrêxa Avila).

“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35).

 

Pleiku, Chúa Nhật I Mùa Vọng (30/11/2025)

Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ