Ngày 21/12: Thánh Phêrô Trương Văn Thi – Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc, Linh Mục, Tử Đạo

1. Thánh PHÊRÔ TRƯƠNG (PHẠM) VĂN THI

Linh mục (1763 – 1839)

Ngày tử đạo: 21 tháng 12 năm 1839

Dù thế nào mặc lòng, khi có người đau ốm nặng nguy tử, các con cũng phải đón cha đi xức dầu bệnh nhân, kẻo gây thiệt hại linh hồn người bệnh.

Thánh Phêrô Trương Văn Thi sinh năm 1763 tại xứ Kẻ Sở, Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Dù xuất thân từ gia đình nghèo nhưng cha mẹ có lòng đạo đức, sốt sắng. Dòng họ của cha cũng có một người chịu tử vì đạo, đó là thầy Đường, là con anh ruột của cha Thi. Cha Thi chịu chức linh mục lúc bốn mươi ba tuổi.

Cha mẹ cha Thi nghèo, cho con đi chăn bò cho dòng Mến Thánh Giá Kẻ Đầm. Các nữ tu thấy cậu có đức tính tốt nên xin cha xứ nuôi và cho vào nhà xứ (nhà Đức Chúa Trời). Bấy giờ cậu mới được mười hai tuổi. Cậu Thi ngày càng thêm sốt sắng nhân đức, nên bề trên cho vào nhà trường học hành, về sau làm thầy giảng. Chẳng bao lâu, bề trên gọi thầy Thi vào chủng viện và thầy được lãnh nhận thánh chức linh mục vào ngày 22-3-1806, lúc 43 tuổi. Sau khi chịu chức, cha Thi được cử đi coi sóc xứ Sông Chảy, tỉnh Phú Thọ và ở đấy hai mươi bảy năm.

Giáo hữu đã làm chứng về cha rằng: Cha Thi là người rất nhân đức và sống khó nghèo. Cha dâng Thánh lễ cách nghiêm trang, sốt sắng, thường ăn chay các ngày thứ Sáu trong tuần.

Đức cha Du[1] khen cha Thi rằng: Cha Thi đã già nhưng người sống mực thước và giữ các lễ phép kỹ càng lắm. Đức cha Khiêm[2] làm chứng: Năm 1835 tôi mới biết cha Thi. Tôi thấy người rất sốt sắng và giữ mực thước trong cách cư xử. Người rất hiền lành và khôn ngoan.

Vì có lệnh cấm đạo của vua Minh Mạng, giáo dân không dám mời cha đi giúp các bệnh nhân. Khi nghe tin, cha rất buồn và nhắc nhở các tín hữu: “Dù thế nào mặc lòng, khi có người đau ốm nặng nguy tử, các con cũng phải đón cha đi xức dầu, kẻo gây thiệt hại linh hồn người bệnh”.

Năm 1833, khi cha được 70 tuổi, bề trên đổi cha về xứ Kẻ Sông. Bấy giờ đang cấm đạo ngặt, đến nỗi cha phải ẩn ở nhà các giáo hữu. Cha Thi coi sóc xứ Kẻ Sông được bảy năm thì bị lý Pháp cùng bốn đầy tớ bắt cùng với cha Dũng Lạc đang khi hai cha đến xưng tội với nhau. Thấy cha Thi bị bắt, cha Dũng Lạc cũng xưng là đạo trưởng và bị bắt giải về huyện Bình Lục.

Các tín hữu lo tiền để chuộc hai cha nhưng lại bị quan huyện bắt lại vào ngày 10-10-1839. Có giáo hữu định cầm cố cả cơ nghiệp để lấy tiền mà chuộc hai cha, đồng thời viết thư cho cha Lạc rằng: “Lạy cha! Cha chịu tử vì đạo thì được một mình cha lên Thiên Đàng, nhưng nếu cha còn ở lại thì chúng con được nhờ, xin cha nghĩ lại”. Người nhà quan cũng đã nói rằng: “Hễ khi có tiền, thì chúng tôi bỏ người vào võng mà võng ra”. Thế nhưng cha Lạc cấm và nói: “Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba nên quyết vâng ý Đức Chúa Trời định cho tôi làm vậy. Đừng chuộc tôi làm gì”.

Qua ba ngày, quan huyện giải cha lên Kẻ Chợ. Bởi vì cha Thi đã già và yếu đuối, quan huyện bảo giáo hữu thuê võng cho cha, còn cha Lạc thì mang gông đi chân không. Đến tỉnh, hai cha bị tra hỏi ba lần. Quan án bảo bước qua thập giá để quan tha nhưng các cha cương quyết không chịu.

Hai cha biết chắc mình sẽ bị xử trảm nên đọc kinh cầu nguyện, dọn mình chịu chết. Cha Thi yếu lắm, chỉ nằm nghỉ. Cha Lạc tươi tỉnh vui vẻ như khi ở nhà và yên ủi cha già rằng: “Ta hãy chịu khó ít nữa để ta được gặp Cha Cả”.

Ngày 16-11-1839, ông tổng Thìn dẫn cha Trân đưa Mình Thánh vào cho hai cha. Ngày 21-12-1839, hai cha bị đưa ra cửa ô Cầu Giấy. Cha Thi cùng cầu nguyện với cha Lạc, rồi cha bảo với lý hình: “Tôi đã xong rồi, các ông cứ việc”. Cha Thi bị trói vào cọc rồi bị xử trảm.

Linh mục Phêrô Trương Văn Thi được nâng lên hàng chân phước ngày 27-5-1900 và được tôn phong hiển thánh ngày 19-6-1988.

—————————————–

2. Thánh ANRÊ TRẦN AN DŨNG (LẠC)

Linh mục (1795 – 1839)

Ngày tử đạo: 21 tháng 12 năm 1839

Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì quyết vâng ý Đức Chúa Trời định cho tôi làm vậy, đừng chuộc tôi làm gì.

Thánh Anrê Trần An Dũng sinh năm 1795 tại thị trấn Kinh Bắc, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Khi cha mẹ vào Kẻ Chợ[1], cậu Trần An Dũng cũng đi theo và xin vào đạo. Cậu ở nhà xứ với Cố[2] Chính Lan, bề trên Tiểu chủng viện Kẻ Vĩnh.

Anrê Trần An Dũng sáng dạ cách lạ lùng, xem từ gì hai lần liền thuộc. Người thông chữ Nho và tiếng Latinh. Tính người hòa nhã vui vẻ cùng lịch sự phần đời, cho nên các thông lại và những người chữ nghĩa cùng nể trọng. Người học chủng viện ba năm, rồi chịu chức linh mục vào ngày 15-3-1823.

Người được cử về giúp cha Khiết ở xứ Đồng Chuối bốn tháng, rồi giúp cha Thi ba năm, sau giúp cha Duyệt ở xứ Sơn Miêng. Đức cha Du sai cha Anrê Trần An Dũng làm chính xứ trong Thanh độ ba bốn tháng, rồi làm chính xứ Kẻ Đầm. Bấy giờ cha Anrê Trần An Dũng đã ngoài bốn mươi tuổi.

Cha Anrê Trần An Dũng giảng rất sốt sắng, việc phần đời phân xử rạch ròi. Cha cư xử nhẹ nhàng nên bổn đạo ai cũng vâng phục. Cha ăn mặc đơn sơ, giữ chay trọn mùa chay cùng các ngày quy định ăn chay trong năm.

Dù đang lúc bị bắt đạo, cha vẫn năng hỏi thăm và giúp đỡ những người nghèo. Khi được đón đi giúp kẻ liệt, cha không cho đầy tớ theo sợ họ bị quan lính bắt. Cha thường sai các thầy đi lại các họ đạo, giục người ta đến gặp cha để xưng tội.

Cha Anrê Trần An Dũng lập nhà xứ trong làng Kẻ Sui được bảy tám tháng thì bị bắt giải lên quan phủ. Bấy giờ, tổng Thìn đưa sáu nén bạc cho quan huyện Hào Khánh ở Đôn Thư, cùng cậy liệu việc với quan phủ cho cha khỏi bị án. Ông huyện ăn bốn nén, đút lót cho quan phủ hai nén mà thôi, cùng thưa rằng: “Cậu tôi về xem lễ ở Kẻ Sui và quan bắt thì xin tha cho cậu tôi”. Ông huyện nói với quan phủ rằng cha là cậu ông ấy, cho nên quan phủ tha cho cha về. Nhân vì sự ấy, cha Anrê Trần An Dũng phải cải tên là Lạc.

Về sau, cha Dũng Lạc bị lý Pháp cùng bốn đầy tớ bắt làm một với cha Thi khi hai cha đến xưng tội với nhau. Giáo hữu lo tiền để chuộc nhưng hai cha bị quan huyện bắt lại vào ngày 10-10-1839.

Có giáo hữu định cầm cố cả cơ nghiệp lấy tiền mà chuộc hai cha và viết thư cho cha Lạc rằng: “Lạy cha! Cha chịu tử vì đạo thì được một mình Cha lên Thiên Đàng, nhưng nếu Cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, xin Cha nghĩ lại”. Người nhà quan cũng đã nói rằng: “Hễ khi có tiền, thì chúng tôi bỏ người vào võng mà võng ra”. Thế nhưng, cha Lạc cấm và nói: “Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì quyết vâng ý Đức Chúa Trời định cho tôi làm vậy, đừng chuộc tôi làm gì”.

Qua ba ngày, quan huyện giải hai cha lên Kẻ Chợ. Đến tỉnh, hai cha bị tra hỏi ba lần. Khi quan án bảo bước qua thập giá để quan tha, các cha cương quyết chẳng chịu. Hai cha biết chắc mình sẽ bị xử quyết, thì hằng đọc kinh cầu nguyện dọn mình. Cha Lạc yên ủi Cha Thi rằng: “Ta hãy chịu khó ít nữa để ta được gặp Cha Cả”.

Ngày 01-11-1839, ông tổng Thìn dẫn cha Trân đưa Mình Thánh vào cho hai cha. Ngày 21-12-1839, hai cha bị đưa ra bãi ngoài cửa ô Cầu Giấy. Cha Lạc thưa với quân lý hình: “Quan sai các ông thì các ông cứ việc, tôi xin các ông thong thả cho tôi một chốc”.

Cha Lạc chắp tay cầu nguyện một ít lâu rồi cùng chịu xử trảm với cha Thi. Các tín hữu rước thi hài hai đấng tử đạo về an táng tại nhà bà Lý Quý, gần Cầu Giấy, sau đó chuyển về nhà thờ Hà Nội và được lưu giữ cho đến ngày nay.

Linh mục Anrê Trần An Dũng Lạc được nâng lên hàng chân phước ngày 27-5-1900 và được tôn phong hiển thánh ngày 19-6-1988.

Trích sách “Hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Biên soạn: 
Hội đồng Giám mục Việt Nam
WHĐ