Bách Hại Và Tử Đạo Thời Tân Ước – Dưới Ánh Sáng Lời Chúa (Bài 150)

Bài 150 : Bách hại và Tử đạo thời Tân ước

Chúa nhật XXXIII Thường niên, năm C tới đây, Giáo hội Việt Nam mừng kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Phụng vụ Lời Chúa lễ các thánh tử đạo thường đề cập đến những bách hại, thử thách, đau khổ và những cái chết làm chứng cho đức tin.

Trong bài học hỏi lần này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những bách hại và tử đạo trong thời Tân Ước, khởi đi từ Đức Ki-tô, các tông đồ và các tín hữu thời sơ khai.

1. Tân Ước, thời bách hại và làm chứng

Trong khái niệm Kinh Thánh về thời gian, thời Tân Ước được nói đến như “những ngày sau hết”“thời sau hết” hay “thời cuối cùng” (1 Cr 10,11 ; Gc 5,3 ; 1 Pr 1,5). Cựu Ước nói về “thời cuối cùng” như một tương lai xa (x. Is 41,4 ; Đn 10,14 ; Cv 2,17) còn Tân Ước thì cho thấy thời kỳ đó đã đến trong Đức Giê-su Ki-tô cùng với cái chết, sự phục sinh, thăng thiên và trải dài cho đến ngày quang lâm (x. 2 Tm 3,1 ; Hr 1,2 ; Gc 5,3 ; 1 Pr 1,20). Trong khoảng thời gian chờ đợi ngày Đức Ki-tô ngự đến trong vinh quang, Kinh Thánh mô tả giai đoạn này như là “thời cuối cùng”, thời mà sẽ luôn có những kẻ phỉ báng, chế nhạo, thách thức, bách hại, chống đối và thù nghịch với Đức Ki-tô : “Vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go” (2 Tm 3,1) ; “Trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ nhạo báng chê cười” (2 Pr 3,3) ; “Đây là giờ cuối cùngAnh em đã nghe biết là tên Phản Ki-tô sẽ đến ; thế mà giờ đây nhiều tên Phản Ki-tô đã xuất hiện. Do đó, chúng ta biết được rằng đây là giờ cuối cùng (1 Ga 2,18).

Trong bối cảnh này, các tông đồ được sai đến với muôn dân như các “chứng nhân” về những gì Đức Giê-su “đã làm và đã dạy” (x. 1 Ga 1,1-2 ; Cv 1,1). Chính Đức Giê-su đã truyền cho các môn đệ rằng : “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại ; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân […]. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,46-48).

Chứng nhân là hạn từ gốc Hy-lạp μάρτυς với hàm ý về sự tuẫn giáo hay tử vì đạo. Danh xưng chứng nhân – tử đạo được dành riêng để nói về các chứng nhân đức tin, những người đã kiên nhẫn chịu đựng và trung thành cho đến chết vì niềm tin vào Đức Ki-tô. Các sách Tân Ước, cách riêng là sách Công vụ tông đồ và Khải Huyền đã ghi nhận sự bách hại dữ dội chống lại các môn đệ Đức Giê-su, từ trong cộng đoàn Do-thái giáo cho đến hầu hết các vùng thuộc Đế quốc Rô-ma vào thế kỷ thứ I của công nguyên. Bấy giờ các tín hữu “phải tản mác vì cuộc bách hại xảy ra” (Cv 11,9). Tác giả sách Khải huyền viết : “Tôi thấy linh hồn những người đã bị chém đầu vì đã rao giảng lời chứng của Đức Giê-su và lời của Thiên Chúa” (Kh 20,14) ; “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14).

Vị tử đạo đầu tiên được sách Khải huyền mô tả là Đức Giê-su Ki-tô, Vị Chứng Nhân trung thành và chân thật của Thiên Chúa (x. Kh 1,5). Tiếp theo sau là các chứng nhân của Đức Giê-su Ki-tô, các môn đệ được sai đi làm chứng, và là chứng nhân trung thành của Đức Giê-su dù phải đối diện với giới hạn cuối cùng của đau khổ là cái chết.

2. Đức Giê-su – Vị Chứng Nhân trung thành và chân thật của Lời Thiên Chúa

Kinh Thánh Cựu Ước cho thấy Thiên Chúa tự làm chứng về chính mình và về Lời của Người. Người không cần nại đến lời chứng của phàm nhân vì tự nơi Người là sự thật tuyệt đối (x. Ga 5,34). Và vì là Lời chân thật nên tự Lời đã là Lời chứng (x. Tv 12,7 ; Is 45,23).

Đức Giê-su chính là Lời Thiên Chúa. Người làm chứng cho Thiên Chúa là Đấng duy nhất chân thật và thành tín trong mọi lời đã hứa. Lời đã thành sự thật nơi con người Đức Giê-su. Người đã chứng thực nơi chính mình mọi lời của Thiên Chúa, nơi Người tất cả đều đúng như lời Kinh Thánh (x. Lc 24,44). Trước tòa Phi-la-tô, Người đã công khai làm chứng về sứ vụ của mình khi đến thế gian là để “làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37). Lời là sự thật. Lời đã mặc lấy xác phàm nơi Đức Giê-su, “là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Là chứng nhân trung thành của Lời Thiên Chúa, Đức Giê-su đã từ bỏ chính mình để thực thi Lời Thiên Chúa. Đức Giê-su đã không tự mình nói hay làm bất cứ điều gì, nhưng hoàn toàn để cho Lời Thiên Chúa được thành sự nơi mình (x. Ga 7,16-17), hiến dâng chính mình để phục vụ lời Thiên Chúa (x. Hr 10,7).

Chính vì thế, mọi lời Thiên Chúa hứa tự ngàn xưa đã được nên trọn nơi Đức Giê-su và nhờ Người. Thật vậy, “Mặc khải của Đức Giê-su Ki-tô” trong sách Khải Huyền mô tả Người là vị chứng nhân trung thành đã phải trả giá máu để làm chứng cho Lời chân thật của Thiên Chúa nơi bản thân mình : “Người khoác một áo choàng đẫm máu và danh hiệu của Người là ‘Lời của Thiên Chúa’” (Kh 19,13).

Đức Giê-su chịu đau khổ. Vì trung thành làm chứng cho Lời, Đức Giê-su đã bị chống đối, vu khống, bị phản bội, bị nộp, bị xét xử, đánh đòn, bị nhạo báng, nhục mạ, bị đóng đinh và giết chết (x. Mc 10,33-34 ; Lc 18,32-34). Nỗi thống khổ của Đức Giê-su giống như nỗi đau khổ của các ngôn sứ mà thư Híp-ri làm chứng : “Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích và bỏ tù ; họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm ; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức và hành hạ (Hr 11,36-37).

Đức Giê-su hoàn toàn tha thứ cho những kẻ bách hại và giết chết mình. Người không xin sự báo oán của Thiên Chúa, nhưng phó thác cho Đấng duy nhất có quyền xét xử. Kinh Thánh cho thấy Đức Giê-su vô tội, nhưng không thụ động là nạn nhân của sự dữ, mà chủ động trước cái chết (x. Ga 10,18). Chính Người đã cho thấy mình tự nguyện hiến mạng sống, tự nguyện hy sinh chịu chết vì con người. Bằng cái chết, Đức Giê-su cho thấy tính triệt để của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người (Kh 1,5 ; Is 53,11).

Đức Giê-su đã sai các tông đồ ra đi với mặc khải rằng các ông sẽ bị bách hại như Người : “Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,20). Như Đức Giê-su nên một với Cha trong tư cách là chứng nhân chân thật của Lời, các môn đệ cũng phải bỏ mình để nên một với Đức Ki-tô trong tư cách là chứng nhân chân thật của Người. Chúng ta hãy nghe đoạn Tin Mừng được trích đọc trong ngày lễ Các Thánh Tử Đạo : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ? Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9,23-26).

3. Các môn đệ – chứng nhân của Đức Ki-tô.

Các môn đệ được Đức Ki-tô sai đi làm chứng nhân, đem sứ điệp Tin Mừng đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). Các ông ra đi với lời chứng tiên khởi cho người Do-thái rằng : “Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô” (Cv 2,36). Vì lời chứng này, các ông đã bị đánh đòn, bị bỏ tù, bị cấm rao giảng danh Đức Giê-su. Sách Công vụ cho thấy cả phái Xa-đốc lẫn nhóm Pha-ri-sêu đều chống lại các ông (x. Cv 5,17-18.34-39) ; còn nhà chức trách Do-thái thì đàn áp và tìm cách tiêu diệt các môn đệ. Thời kỳ này, có hai chứng nhân tử đạo được nêu danh là ông Tê-pha-nô và tông đồ Gia-cô-bê (Cv 7,54-60 ; 12,2). Dù bị ngược đãi tư bề, các tông đồ vẫn đầy hân hoan “bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su” (Cv 5,41). Tuy Tân Ước không ghi nhận nhưng các sách ngoại thư có kể lại cuộc tử đạo của thánh Phê-rô bằng việc đóng đinh ngược vào thập giá, còn thánh Phao-lô thì bị chém đầu.

Chứng nhân là nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô. Bất cứ ai muốn theo Người phải từ bỏ mình, vác thập giá và đi theo. Ba đòi hỏi này làm nên lối sống duy nhất của người môn đệ. Đó là đòi hỏi nền tảng về lòng trung thành của người làm chứng cho Đức Ki-tô. Ai không có tâm tình và hành động như thế thì không thể làm nhân chứng của Đức Ki-tô (x. Lc 9,23-26 ; Mt 16,24-27 ; Mc 8,34-38).

Các môn đệ biết rõ số phận của mình cũng sẽ như số phận của Đức Ki-tô : “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét” (Mt 10,22). Làm chứng nhân luôn hàm ý bị bách hại và tử đạo như chính Đức Giê-su vậy.

Thánh Tê-pha-nô được gọi là chứng nhân, nghĩa là đã nên giống Đức Ki-tô khi chịu khổ hình, trở nên “chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô” (1 Pr 5,1). Điều này có nghĩa là các ngài đã chứng kiến và nay làm chứng bằng lời, bằng việc làm, bằng đời sống, đặc biệt bằng việc thông phần đau khổ với Người.

Bước theo Đức Ki-tô chịu đóng đinh nói lên lòng trung thành trước bách hại và đau khổ. Thánh Phao-lô không chỉ khẳng định mình sẵn sàng chết mà còn ưa thích cái chết vì Đức Ki-tô (x. Pl 1,21). Đối với các chứng nhân trung thành, không có thử thách nào dù là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo có thể tách họ ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Ki-tô (x. Rm 8,35-39).

Cầu nguyện

Để kết thúc, chúng ta hãy ca ngợi Vị Chứng Nhân trung thành là Đức Ki-tô. Chúng ta cũng ca ngợi Thiên Chúa vì tình yêu và lòng trung thành của các chứng nhân đã được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô :

“Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em,

để lại một gương mẫu

cho anh em dõi bước theo Người.

Người không hề phạm tội ;

chẳng ai thấy miệng Người

nói một lời gian dối.

Bị nguyền rủa,

Người không nguyền rủa lại,

chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe,

nhưng một bề phó thác

cho Đấng xét xử công bình.

Tội lỗi của chúng ta,

chính Người đã mang vào thân thể

mà đưa lên cây thập giá,

để một khi đã chết đối với tội,

chúng ta sống cuộc đời công chính.

Vì Người phải mang những vết thương

mà anh em đã được chữa lành”

(1 Pr 2,18-24)

 

Lm. Vinh Sơn Phạm Xuân Hưng, OP.

Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ

Nguồn: tgpsaigon.net