Đêm Sài Gòn vào mùa Giáng sinh năm nay có cái gì đó lạ thường…. Sau những ngày giông bão, trời lại quang, mây lại tạnh. Những ngày se lạnh cuối năm thế này, Sài Gòn toả hơi ấm áp của không khí mùa Giáng sinh. Đâu đâu cũng rực rỡ ánh đèn, tiếng nhạc mùa Noel phát từ quán cà phê tràn ra vỉa hè, xen lẫn tiếng xe máy và tiếng gọi nhau í ới… Ai cũng bận. Ai cũng vui. Ai cũng vội.
Tôi, một sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thủ Đức, cũng vội. Vội chạy deadline bài thuyết trình, vội nhắn tin trả lời mấy người bạn, vội rảo bước cho kịp chuyến xe buýt cuối. Vội đến mức quên mất hôm nay là Chúa nhật thứ ba mùa Vọng. Điện thoại rung, lại là tin nhắn của mẹ: “Con nhớ lát nữa đi lễ đây nhé! Mùa Vọng giáo xứ mình vui lắm. Hy vọng trong đó con cũng đi lễ đều đặn.” Tôi đọc vội, rồi im bặt luôn.
Chẳng phải tôi ghét đi nhà thờ sao? Tôi chỉ mệt mỏi, thờ ơ với những kiểu tin nhắn như thế. Hoặc tôi đang mệt mỏi kiểu người trẻ bây giờ hay mệt ấy, nhiều thứ muốn làm, nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu. Nhiều thứ không thể gọi tên, nên cũng chẳng cần bận tâm. Kiểu buồn như con chuồn chuồn, chán như con gián vậy. Trong một mớ giọt buồn không tên này, bỗng tôi có một ý tưởng lóe lên trong đầu.
Xe buýt dừng trước cổng Đại học Ngân hàng đường Hoàng Diệu 2. Tôi bước xuống xe, kéo cổ áo, chỉnh lại cái ba lô, và đi vào đường số 5, để vào nhà thờ Hiển Linh Dòng Tên. Trong màn trời rực rỡ của phố phường, chợt tôi thèm một góc u tối, kiểu im lặng với khung cảnh “chill chill” một chút. Chưa bao giờ tôi thèm thinh lặng như lúc này. Tôi đi bộ vào cổng của Dòng Tên, định bước qua nhà thờ, nhưng nhìn vào trong khuôn viên nhà Dòng, tôi thấy hang đá quý thầy làm từ hồi nào rồi.
Hang đá dựng trước khu phòng học của quý thầy. Năm nay hang đá làm bằng những bao xi măng cũ rích, cùng với lớp bạt lớn được sơn phết cho giống đá rêu phong. Trong hang đá có rơm khô, có mấy con bò, con lừa…. Thánh Giuse đứng hơi nghiêng, tay cầm cây gậy. Đức Mẹ cúi nhìn Hài Nhi, khuôn mặt hiền hậu. Trên cao là một ngôi sao gắn đèn nhấp nháy chiếu xuống hang đá.
Vì lúc này người đi lại chưa đông nên tôi có được khoảng không cho riêng mình. Tôi ngồi xuống ghế ở bên cạnh hang đá. Chợt có mùi rơm bốc ra khiến tôi nhớ quê. Nhớ cái tết hồi nhỏ, nhà còn nghèo, mẹ tôi hay cột rơm ngoài sân, đốt lên nấu bánh tét, bánh chưng. Lửa kêu lách tách, khói bay mịt mù. “Ôi, gần tết rồi!” – Tôi tự nhủ mà lòng xao xuyến muốn book vé về quê ngay lập tức. Tôi nhớ tiếng mẹ gọi: “Vô nhà, coi chừng gió độc đó con.” Mùa đông ngoài Bắc quê tôi chắc khó khăn hơn sau những trận lụt vừa rồi, cộng thêm gió thổi liên hồi. Đôi khi có rét đậm, rét hại. Gió luồn qua áo, len cả vào trong lòng.
Tôi nhìn Đức Mẹ trong hang đá, bỗng tự hỏi một câu mà hồi nhỏ tôi hay nghe trong bài hát tiếng Anh mấy bạn ca đoàn hay tập: “Mary, did you know? – Maria, Mẹ có biết không?” Mở Youtube ra, tôi nghe lại bài này: Pentatonix – Mary, Did You know? (Official Video).
Nghe hết bài, tôi cười thầm. Biết gì ta? Biết rằng Con của Mẹ sẽ cứu độ thế gian? Biết rằng Hài Nhi sẽ làm phép lạ? Biết rằng Em bé này sẽ chết trên thập giá? Biết…
Tôi là người trẻ, nên cũng thích hỏi vu vơ như thế. Nhưng tôi cũng sợ câu trả lời. Vì câu trả lời thường kéo theo trách nhiệm. Tôi đang suy nghĩ bâng quơ kiểu như một nhà thần học đang trầm ngâm tìm câu trả lời cho câu hỏi rất tầm thường này, thì có tiếng gọi phía sau.
– Phú ơi, em đến đây coi hang đá hả? Sao không báo thầy trước, để thầy ra đón.
– Dạ, em qua nhà thờ Hiển Linh có chút việc, nhưng còn sớm, lại thấy hang đá đẹp quá nên ghé vào ngắm chút vậy mà.
– Thì ra là vậy. Ah, bên Hiển Linh hình như đang có chương trình gì đó, nên họ cần người giúp một số việc cho Giáng sinh ấy.
– Dạ, đúng rồi thầy, mấy hôm trước em cũng đọc thông báo trên facebook, nên nay em đến.
Vậy là thầy với tôi tản bộ qua bên Hiển Linh. Một chị khoảng hơn ba mươi, mặc áo khoác xanh dương, tóc cột gọn, tay cầm cuộn dây điện. Mắt chị sáng long lanh, chị nói nhanh nhảu mà không ngắt quãng. Chị nhìn tôi kiểu nhìn một người quen. Tôi bỗng thấy khó từ chối ánh mắt như muốn nhờ hỗ trợ của chị giống cái lúc mà mẹ nhờ tôi rửa chén.
– Dạ… em có thể phụ giúp được gì không à, chị?
– Bên kia đang thiếu người gói quà và đưa đồ lên xe. Tối nay có phát quà cho mấy em nhỏ ở xóm trọ bên khu người nghèo. Em rảnh không? Vô phụ giúp gì được thì phụ.
Tôi nghĩ đến cái phòng trọ, cái giường, cái chăn, cái điện thoại. Tôi nghĩ đến bài tập sắp làm, đến cuộc hẹn với bạn gái dự lễ Giáng sinh. Nhưng rồi nhìn vào hang đá, nhìn Đức Mẹ cúi xuống… và tôi gật đầu.
– Dạ được.
Vô duyên thật, mình cố tình đến đây để giúp mà, vậy lại còn chần chừ chi rứa! – Tôi tự nhủ.
– Chị cười nói: Vậy vô đi. Chị tên Thảo.
Cả ba chúng tôi bước về hướng cuối nhà thờ. Tôi chẳng biết mình sẽ làm gì, nhưng nhìn khung cảnh nhà xứ cũng thấy vui vui. Sân cỏ nhà thờ có vài đứa trẻ chạy nhảy tung tăng. Mấy người lớn thì nói chuyện nhỏ nhẹ, cười đùa vừa phải. Có mấy bạn trẻ đang bưng thùng giấy, có mấy cô đang xếp bánh kẹo, có mấy bác lớn tuổi đang treo dây đèn.
Chị Thảo dẫn tôi vào phòng giáo lý. Trong đó, một nhóm bạn trẻ đang ngồi quanh bàn, gói quà. Quà rất đơn giản: một gói bánh, một hộp sữa, một chiếc khăn, và một tấm thiệp nhỏ có hình Hài Nhi.
Một bạn nam đẩy về phía tôi một chồng giấy gói rồi nói:
– Ngồi đây gói chung nhé, anh gói được không?
– Tôi cười đáp: “Mình gói dở lắm.”
– Không sao, Noel mà. Đẹp xấu Chúa cũng nhận hết. Bạn trả lời tôi.
Câu nói đó làm tôi khựng lại. Đẹp xấu gì Chúa cũng nhận. Chúa kỳ thế. Tôi không biết bạn ấy nói chơi hay nói thật. Nhưng tôi ngồi xuống. Tay tôi lóng ngóng. Mấy giấy gói quà kêu sột soạt. Băng keo dính cả vào tay. Tôi gói xong cái đầu, nhìn như cục bột vậy, nhăn nhúm. Tôi định giấu kỹ, hoặc tháo ra gói lại, nhưng chị Thảo nhìn qua, không chê, chỉ nói: “Em gập mép lại chút, lấy băng keo dán vào, vậy là đẹp.”
Tôi gập lại, cái hộp quà thẳng hơn. Không hoàn hảo, nhưng có hình thù vuông vức.
Trong lúc gói quà, người ta nói chuyện rôm rả. Ai cũng hỏi nhau đang học gì, làm gì, năm nay có về quê không. Một bạn nữ kể: “Em đi làm thêm ở quán cà phê ở khu Sóng Thần, hết ca là chạy qua đây luôn.” Một bạn khác bảo: “Tối nay phát quà bên khu trọ công nhân, đông lắm, có mấy nhà mới chuyển đến nữa. Nghe nói họ đang đến đông lắm.”
Tôi nghe là đoán được đời sống của họ không phải người trên mây rồi. Họ cũng mệt, cũng bận, cũng thiếu tiền, cũng có bài thi, cũng có cãi nhau với gia đình. Nhưng các bạn ấy vẫn có mặt ở đây vì họ tin một điều gì đó, chứ không chỉ đến để phụ giúp nhà thờ như một tình nguyện viên.
Trong góc phòng có một chiếc loa nhỏ. Cha xứ đến và bật bài “Đêm thánh vô cùng”. Nhạc vang lên, nhớ hồi bé, tôi từng hát bài này trong nhà thờ, giọng không hay như ca sĩ nhưng lòng vui lắm. Tôi nhớ rằng mình từng tin Giáng sinh luôn có những phép màu xảy ra. Rồi lớn lên tầm tuổi này, tôi nghĩ phép màu là thứ chỉ dành riêng cho con nít mà thôi.
Tôi đang gói quà thì một ý tưởng hiện lên trong đầu: Maria, Mẹ có biết? Có lẽ Mẹ biết nhiều thứ, nhưng có một điều Mẹ chắc chắn biết: Mẹ đang bồng ẵm một đứa trẻ. Và đứa trẻ đó cần Mẹ. Không phải cần gác tía lầu son, không cần xa hoa lộng lẫy nhưng Hài Nhi này cần bàn tay của Mẹ, cần hơi ấm, cần một chỗ nằm.
Tôi liếc nhìn tấm thiệp Noel. Trên đó có câu: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.” Tôi chợt nghĩ: “Bình an ở đâu?” Tôi không thấy bình an trong internet, không ở trong timeline, trong tin nhắn, trong lịch học. Nhưng ở đây, trong phòng giáo lý, giữa những cái hộp quà vụng về, tôi thấy một thứ bình an rất nhỏ, nhưng hình như có thật.
Một tiếng trôi qua lúc nào không hay. Chị Thảo vỗ tay: “Xong rồi nha. Mình chuẩn bị ra xe thôi.”
Tôi đứng dậy, vai hơi mỏi vì không quen gói quà, nhưng lòng lại nhẹ nhõm hơn. Chị Thảo đưa tôi một cái áo khoác mỏng màu xám: “Em mặc thêm đi, tối nay gió nhiều hơn mọi khi.”
Tôi định chối từ, nhưng rồi cũng nhận. Cái áo khoác có mùi nước xả vải, mùi của nước xả mẹ tôi hay dùng. Tôi bất giác thấy cổ họng mình nghẹn lại.
Chúng tôi chất quà lên hai chiếc xe bán tải nhỏ của giáo xứ. Tôi ngồi băng sau với mấy bạn trẻ. Xe chạy ra khỏi khu nhà thờ, rẽ vào vài con đường nhỏ hẹp. Càng vào trong hẻm, đèn Noel càng ít. Nhà cửa càng đi càng chật hẹp. Những dãy trọ thấp, tường loang lổ, cửa sắt cũ rích. Có những bóng đèn tuýp trắng treo trước cửa, sáng chập chờn….
Xe dừng lại.
Một nhóm trẻ con đã đứng đợi ở sân trống giữa khu trọ. Chúng không mặc đồ Noel, không đội mũ đỏ, chỉ mặc áo thun mỏng, quần áo lấm lem sau những trò chơi con nít. Nhưng mắt chúng sáng. Có đứa ôm em bé. Có đứa kéo tay mẹ.
Một người phụ nữ trẻ đứng phía sau, bế con nhỏ. Mặt chị tái, môi nhợt, tóc rối. Chị nhìn chúng tôi, ánh mắt vừa mừng vừa ngại. Tôi thấy chị giống như ai đó tôi từng gặp ở bến xe, những người lên thành phố với một cái ba lô, với một giấc mơ, và một nỗi sợ.
Chị Thảo bước xuống trước và nói: “Chào bà con. Chúng em đến đây phát quà Noel cho mấy cháu, rồi chút nữa tụi em hát vài bài để mừng Giáng sinh.”
Tiếng vỗ tay lác đác. Trẻ con cười nói. Người lớn đứng xa, như sợ làm phiền.
Tôi cầm một thùng quà, bắt đầu phát. Tôi cúi xuống đưa quà cho một bé gái khoảng bảy tuổi gì đó. Bé nhìn tôi, không nhận ngay, mà hỏi: “Anh ơi, cái này của em hả?”
“Ừ, của em đó.”
Bé cười, ôm chặt hộp quà, như ôm một kho báu vậy. Bé chạy về phía mẹ, khoe trong niềm vui sướng. Mẹ bé xoa đầu bé, mắt đỏ hoe.
Một bé trai khác nhận quà, mở ra liền. Thấy một hộp sữa tươi, bé uống ngay tại chỗ, không chần chờ. Tôi nhìn, tự nhiên thấy thương ghê. Thương cái đói rất thật. Thương cái vui rất nhỏ mà ấm áp. Vậy mà nhiều người kháo với nhau rằng thời này trẻ em không cần bánh kẹo, quà cáp nữa. Ah, thì ra những đứa trẻ con nhà nghèo vẫn cần, rất muốn nhận được món quà ngon ngọt này.
Trong lúc phát, tôi thấy một cô lớn tuổi ngồi ở bậc thềm, tay ôm đầu gối. Mắt cô nhìn xa xăm. Tôi lại gần.
“Cô nhận quà không cô?”
Cô cười buồn: “Cô già rồi, quà cáp gì nữa con.”
“Dạ, đây có khăn, có bánh. Cô có thể dùng ạ.”
Cô lắc đầu, rồi lại gật, như không muốn phiền, nhưng cũng cần. Tôi đưa cô chiếc khăn. Cô cầm, vuốt nhẹ, rồi nói khẽ: “Ngoài Bắc lạnh lắm con. Cô vô đây ở với con gái. Nó đi làm, chồng nó cũng đi làm. Tụi nhỏ ở nhà, cô trông mấy cháu. Noel đến, Xuân sắp về, cô nhớ ngoài quê ghê gớm lắm.”
Tôi không biết nói gì sau những lời nặng lòng của cô. Tôi chỉ ngồi xuống bên cô một chút. Tiếng trẻ con cười chạy loanh quanh. Tiếng xe máy lao xao chạy ngoài đường. Tiếng nhạc Noel từ loa phát ra. Trong cái sân trọ xấu xí này, Noel đang đến, không phải bằng tuyết trắng hay quà đắt tiền, mà bằng những gói quà đơn sơ, nhưng ý nghĩa.
Tôi chợt thấy hang đá Bêlem không ở đâu xa. Nó nằm trong những chỗ người ta không muốn chụp hình. Hang đá nằm trong chỗ lạnh lẽo, chỗ nghèo hèn, chỗ tạm bợ. Và nếu Chúa chọn chỗ đó để sinh ra, có lẽ Chúa cũng chẳng ngại bước vào những nơi lộn xộn của đời tôi.
Một lúc sau, nhóm bạn trẻ bắt đầu hát. Họ hát “Hang Bêlem”, rồi “Mừng vui lên”, “Đêm thánh vô cùng”. Trẻ con không thuộc lời, nhưng vỗ tay theo nhịp. Có mấy người lớn lẩm nhẩm. Tôi thấy một người đàn ông đứng dựa tường, mặt sạm buồn mệt mỏi, chắc vừa đi làm về. Anh nhìn hai đứa con của mình, rồi cười. Nụ cười rất mệt….
Chị Thảo đưa micro cho tôi: “Em nói vài lời được không? Kiểu chúc Noel vậy á.”
Tôi giật mình: “Em… em nói gì bây giờ chị. Em không quen đâu!”
Tôi cầm micro run run. Nhìn xuống những đôi mắt. Tôi thấy tay mình run hơn. Tôi không quen nói trước đám đông kiểu này. Tôi cũng không phải người đạo đức mẫu mực. Tôi là người vừa định trốn về phòng trọ để ngủ.
Tôi hít một hơi thật sâu. Và không hiểu sao, câu trong bài hát tôi vừa nghe bên hang đá hồi chiều lại trồi lên trong lòng: Maria, Mẹ có biết? Tôi nói chậm:
“Dạ, con chào cô chú và các bạn nhỏ. Con không quen nói trước nhiều người như thế này. Nhưng con muốn nói một điều: Noel là ngày Chúa đến với mình. Chúa không đến trong chỗ giàu, chỗ sang, mà đến trong chỗ đơn sơ. Cho nên… con nghĩ… Chúa cũng đang ở đây với cô chú và các em. Và con cũng cầu mong Chúa cho mình bình an, cho mình thương nhau nhiều hơn.”
Tôi dừng lại. Tôi định nói thêm mấy câu hoa mỹ, nhưng không thể nhớ ra. Tôi chỉ nói thêm: “Merry Christmas. Giáng sinh an lành.”
Tiếng vỗ tay nhỏ. Tôi trả micro cho chị Thảo, tim đập thình thịch. Tôi thấy xấu hổ vì lời mình đơn giản quá. Nhưng chị Thảo ghé tai tôi: “Hay quá, hay vì em nói thiệt lòng.”
Sau phần hát, chúng tôi dọn dẹp. Trẻ con từ từ về phòng với những món quà trên tay. Người lớn cảm ơn rối rít. Tôi giúp buộc lại dây thùng xe. Khi chuẩn bị lên xe, bé gái lúc nãy chạy ra, đưa cho tôi một viên kẹo nhỏ.
“Anh ăn đi. Kẹo của em, em chia cho anh nè.”
Tôi cúi xuống, nhận viên kẹo. Tôi hỏi: “Sao em cho anh?”
Bé nói như điều hiển nhiên: “Noel mà. Chia nhau mới vui.”
Tôi bóc kẹo, cho vào miệng. Kẹo rẻ tiền thôi, nhưng ngọt lịm. Ngọt kiểu làm người ta muốn khóc thầm.
Xe chạy về nhà thờ. Trên đường, tôi im lặng. Bạn bên cạnh hỏi: “Anh ở đâu vậy? Mai rảnh đi phát tiếp không?”
Tôi không trả lời liền. Tôi nhìn ra cửa sổ. Đèn đường lùi lại. Trong đầu tôi lại vang câu hỏi: Maria, Mẹ có biết?
Tôi nghĩ, có lẽ Mẹ biết chứ. Mẹ biết cái cảm giác vừa vui vừa lo. Mẹ biết cái cảm giác bồng con mà không có chỗ trọ. Mẹ biết cái cảm giác bị người ta hiểu lầm, bị người ta đẩy ra ngoài. Mẹ biết cái lạnh của đêm, cái sợ của kiếp di dân, rày đây mai đó, cái bấp bênh của ngày mai. Và vì Mẹ biết, nên Mẹ không xa chúng tôi.
Tới nhà thờ, mọi người tản ra. Tôi đứng lại ở sân cỏ, nhìn hang đá của nhà xứ. Lúc này đèn nhấp nháy vẫn sáng, nhưng trong lòng tôi có thêm một thứ sáng khác. Không rực rỡ, nhưng đủ thấy mọi thứ.
Tôi bước đến gần tượng Đức Mẹ. Tôi không dám nói nhiều. Tôi chỉ nói trong lòng, kiểu nói của người Việt khi ngồi trước bàn thờ gia đình: nhỏ thôi, thật thôi. “Mẹ ơi… con mệt quá. Con hay trốn tránh đám đông. Con hay nghĩ đời này có cố gắng cũng chẳng được gì. Thiên Chúa chẳng còn quan trọng nữa. Nhưng tối nay… con thấy Chúa ở chỗ con không ngờ. Nếu được… Mẹ dạy con biết dừng lại. Biết ở lại. Biết yêu thương.”
Tôi đứng đó, như hình một pho tượng. Gió lùa qua sân. Tôi kéo khoá chiếc áo khoác chị Thảo đưa hồi chiều. Tôi nhớ câu chị nói: “Em mặc thêm đi, gió đó.” Tôi bỗng thấy đó cũng là một lời cầu nguyện. Cầu nguyện đôi khi là trao cho nhau cái áo ấm, cho nhau món quà hoặc lời hỏi thăm. Cầu nguyện đôi khi là nhắc nhau đừng để lòng mình bị gió lạnh thổi vào.
Tôi bước vào nhà thờ. Bên trong vắng lặng. Có vài bóng đèn vàng. Có vài người quỳ gần gian cung thánh. Tôi chọn một băng ghế cuối. Tôi ngồi xuống. Tôi không làm gì đặc biệt. Tôi chỉ ngồi và thở phào.
Tôi nhớ một lời hứa của Chúa Giêsu mà hồi nãy chị Thảo đọc trong phòng giáo lý, hình như là một câu Kinh thánh: “Này đây, Thầy ở cùng anh em tất cả mọi ngày cho đến tận thế.” Tôi không nhớ đúng từng chữ, nhưng đại ý thì như vậy: Chúa ở cùng tôi. Ngay cả khi tôi chạy trốn. Ngay cả khi tôi mệt nhoài. Ngay cả khi tôi không biết cầu nguyện. Tôi ngồi một lúc. Điện thoại rung. Mẹ nhắn: “Con đang ở đâu vậy? Nhớ ăn uống đầy đủ đó nhe.”
Tôi nhìn tin nhắn. Tôi muốn trả lời kiểu trống không như mọi khi: “Dạ.” Nhưng rồi tôi gõ một câu khác: “Con đang ở nhà thờ nè. Con ổn lắm. Con nhớ mẹ.”
Tôi bấm nút gửi. Tim tôi mềm ra, như một nắm đất khô cằn gặp nước mát. Trên cung thánh, hang đá nhỏ được đặt cạnh bàn thờ. Hài Nhi chưa đặt vào, vì đang còn mùa Vọng. Chỉ có máng cỏ trống. Tôi nhìn cái trống trải đó, và hiểu một điều đơn giản: đôi khi lòng mình cũng trống, không phải vì thiếu, mà vì đang chờ.
Giáng sinh không phải là ngày bắt buộc phải vui trong ngượng nghịu. Giáng sinh là ngày tôi cho phép Chúa đến, dù lòng tôi còn nhiều ngổn ngang. Tôi đứng dậy ra về. Bước qua cổng chỗ đậu xe của Dòng Tên, tôi nhìn vào trong hang đá lúc nãy mình thăm, tôi hình dung ra tượng Đức Mẹ trong đó. Tôi không còn hỏi: “Mẹ có biết không?” nữa. Tôi thấy câu hỏi ấy đã đổi thành một lời thưa: “Maria, Mẹ biết. Và vì Mẹ biết, con dám hy vọng nhiều hơn.”
Đêm Thủ Đức vẫn đông, vẫn đầy xe cộ. Đèn vẫn sáng. Người vẫn vội. Nhưng tôi đi chậm hơn một chút. Tôi cầm giấy bạc của viên kẹo còn lại trong túi, lòng thầm nghĩ: “Người ta có thể nghèo nhiều thứ, nhưng nếu còn biết chia nhau một viên kẹo, thì vẫn còn hy vọng.”
Và tôi tin, ở đâu có hy vọng, ở đó Hài Nhi vẫn đang được sinh ra.