I. KINH NGUYỆN BÌNH DÂN QUA HUẤN GIÁO

II. KINH NGUYỆN BÌNH DÂN – TẦM NGẮM TRONG LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO

1. Chuyện “Con Dần”, 13 tuổi, một thiếu nữ “bất khẳng

2. Chuyện một thiếu niên ở Đồng Quả

3. Chuyện cha Phêrô Niên

III. THỬ NHÂM NHI MỘT SỐ KINH TRONG SÁCH MỤC LỤC CỦA GIÁO PHẬN

1. CÁC KINH CẦU

1.1. Kinh cầu Tên Đức Chúa Giêsu

1.2. Kinh cầu Đức Bà

1.3. Kinh cầu Ông Thánh Giuse

2. MỘT VÀI KINH THƯỜNG ĐỌC

2.1. Kinh Phú Dâng:

2.2. Kinh Sáng Soi

2.3. Kinh Kính lạy Đức Thánh Thiên Thần

IV. NHƯ MỘT LỜI KẾT

I. KINH NGUYỆN BÌNH DÂN QUA HUẤN GIÁO

Giá trị sức mạnh nâng đỡ và nuôi dưỡng đức tin của lòng đạo bình dân được Tông huấn Niềm vui Tin mừng minh định trong các số từ 123-126:

– Số 123: Lòng đạo bình dân giúp chúng ta thấy rằng đức tin, sau khi được lãnh nhận, sẽ hội nhập vào một nền văn hoá và không ngừng được truyền lại cho các thế hệ sau như thế nào. Từng có thời bị coi thường, lòng đạo bình dân đã được đánh giá cao trở lại trong những thập niên sau Công đồng. Trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã tạo một động lực quyết định trong lãnh vực này. Trong Tông huấn “biểu lộ một lòng khao khát Thiên Chúa mà chỉ những kẻ đơn sơ và nghèo khó mới cảm nhận được” và “nó khiến người ta có thể quảng đại và hy sinh đến mức anh hùng khi cần chứng tỏ đức tin”.

– Số 124: Lòng đạo bình dân là ơn Chúa Thánh Thần. Nó là một cách sống đức tin hợp lệ, một cách cảm nhận mình là thành phần của Hội thánh và biểu lộ tư cách người truyền giáo”; nó mang theo mình ơn gọi làm người truyền giáo, chúng ta đừng bóp nghẹt hay tìm cách kiểm soát sức mạnh truyền giáo này!

– Số 125: Để hiểu thực tại này, chúng ta cần tiếp cận nó bằng cái nhìn của người mục tử nhân hậu, không xét đoán nhưng tìm cách yêu thương. Chỉ với bản tính đồng cảm phát sinh từ tình yêu, chúng ta mới có thể đánh giá cao đời sống hướng thần (theological) hiện tại trong lòng đạo của các dân tộc Kitô giáo, đặc biệt giữa những người nghèo. Tôi nghĩ đến lòng tin kiên vững của các bà mẹ chăm sóc những đứa con bệnh tật của họ, họ là những người rất yêu mến chuỗi Mân côi dù có lẽ họ chỉ biết sơ sài những điểm của Kinh Tin Kính; tôi cũng nghĩ đến niềm hi vọng trọn vẹn được đổ vào một cây nến đốt lên trong nhà để cầu xin ơn trợ giúp của Đức Mẹ, hay cái nhìn trìu mến hướng lên tượng Chúa Kitô chịu nạn. Không một ai yêu mến Dân thánh của Thiên Chúa mà có thể coi những hành động này chỉ là biểu hiện của một cố gắng thuần tuý phàm trần trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Chúng là biểu hiện của một đời sống hướng thần được nuôi dưỡng bởi tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được đổ vào lòng chúng ta (xem Rm 5:5).

– Số 126: Lòng đạo bình dân như là kết quả của Tin mừng hội nhập trong văn hoá, là một sức mạnh phúc âm hoá tích cực mà chúng ta không được coi nhẹ: nếu không, chúng ta sẽ không thể nhận ra tác động của Chúa Thánh Thần. Trái lại, chúng ta được kêu gọi cổ vũ và tăng cường lòng đạo bình dân để đi sâu vào tiến trình không bao giờ kết thúc của hội nhập văn hoá. Các biểu hiện của lòng đạo bình dân dạy chúng ta nhiều điều; với những ai có khả năng đọc được những biểu hiện này, chúng là một locus theologicus (“cơ sở thần học”) mà chúng ta phải chú ý, đặc biệt ở thời điểm chúng ta đang hướng về cuộc tân phúc âm hoá.

Với những chỉ dẫn của Tông huấn, lòng đạo đức bình dân, một hình thái biểu lộ đức tin cần được cổ võ và được đặt vào hàng ưu tiên trong việc mục vụ để củng cố đức tin dân Chúa. Lòng đạo đức bình dân không phải là một phương thức cầu nguyện, một hình thái biểu lộ đức tin dành cho dân dã thuộc giới bình dân, nhưng là một phương thức cầu nguyện, bày tỏ đức tin dành cho mọi tín hữu, dù tín hữu đó là nhà khoa học hay là nông dân hai lúa, là đức giáo hoàng hay người giáo dân bình thường. Làm sao để thực hiện hướng dẫn của Tông huấn: “chúng ta cần tiếp cận nó bằng cái nhìn của người mục tử nhân hậu, không xét đoán nhưng tìm cách yêu thương” ? Trong việc đào tạo “người mục tử nhận hậu” cho tương lai, thiết nghĩ các chủng sinh, “những đầu tàu tương lai”, cần được trải nghiệm, cảm nếm vị ngọt và sức sống dồi dào của lòng đạo đức bình dân hầu dễ dàng hội nhập, đồng hành với giáo dân trong hình thái biểu lộ đức tin phổ thông này.

II. KINH NGUYỆN BÌNH DÂN – TẦM NGẮM TRONG LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO

Ngay từ buổi sơ khai của việc truyền giáo tại giáo phận, Quyển sách giáo lý đầu tiên ở Việt Nam được các thừa sai tại Cư sở Nước Mặn soạn thảo bằng tiếng Nôm với sự cộng tác của một thanh niên Việt Nam. “…Anh là một tân tòng, tên thánh rửa tội là Phêrô, giúp các thừa sai biên dịch sang tiếng địa phương các kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Tin Kính, Mười điều răn mà các kitô hữu đã biết. Ngoài ra còn có các điều phải tin, trong đó có tín điều chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi rất thánh, mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Cứu chuộc, sự cần thiết của Đức tin và các bí tích thánh để được dự phần công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô. Tất cả các Kitô hữu chép lại những điều đó và bắt đầu lần hạt Mân côi như chúng ta”.[1]

Đây là phần đầu sách giáo lý của Đức Hồng y Bellaminô (Thánh Robertô Bellaminô).[2]

Kể từ khởi đầu ấy, trong dòng lịch sử truyền giáo của giáo phận, các thừa sai biên dịch các kinh nguyện từ chữ La-tinh sang chữ quốc ngữ, phổ biến cho giáo dân để đọc hằng ngày hoặc trong các ngày lễ, mùa phụng vụ. Sách Mục Lục của giáo phận Qui Nhơn là một sách Kinh được tổng hợp từ các kinh phổ biến từ thời Thánh Giám mục Stêphanô Cuênot Thể.[3]

Sỡ dĩ vấn đề kinh nguyện giáo dân được đề cập ở đây vì những kinh này đã là một nguồn lực nuôi dưỡng, nâng đỡ đời sống đức tin của dân Chúa trong dòng lịch sử giáo phận suốt 400 năm qua. Câu chuyện “Con Dần”, “thiếu niên ở Đồng Quả” và cha Phêrô Niên, là những câu chuyện tiêu biểu minh chứng giá trị lòng đạo đức bình dân được thể hiện qua những kinh nguyện “bình dân” hằng ngày, giá trị ấy được Tông huấn Niềm Vui Tin mừng tái xác định: “nó khiến người ta có thể quảng đại và hy sinh đến mức anh hùng khi cần chứng tỏ đức tin”.

1. Chuyện “Con Dần”, 13 tuổi, một thiếu nữ “bất khẳng[4]

Đây là câu chuyện thật cảm động của cha François-Marie Geffroy (Cố Bửu) kể về “Con Dần”, cô gái 13 tuổi bị bắt cùng cả gia đình vì đức tin. Trong khi nhiều người kể cả ông bố của mình chối đạo thì cô bé Bình Cang đó đã giữ vững đức tin đến cùng. Sau hai năm bị tù, mẹ và chị cả chịu hết xiết đã chối đạo, rồi đến lượt thân phụ cũng quyết định bước qua thánh giá. Cô bé đau đớn lắm nhưng không thể ngăn cản được. Phần mình, em quyết theo Chúa đến cùng. Quan án Tường được cha Geffroy gọi là “ce trọ trẹ de Huế” – (ông quan trọ trẹ người Huế). Quan đã buộc người cha bước qua Thánh giá mà cô con gái bé nhỏ lại bất khẳng[5], Quan án Trường cho đánh đập tàn nhẫn đến nỗi cô bé ngất đi và được đem về nhà giam mình đầy máu me. Hai ngày sau, dù các vết thương còn tươi rói nhưng em Dần lại bị đưa đến công đường hành hạ tiếp. Cô bé lại bất tỉnh nhân sự và bị lôi ra bỏ ở bờ rào vì tưởng chết. Nhưng Sáu Sự, người Phú Yên, cũng một người bất khẳng, đã ẵm cô bé vào và cho nằm sấp bất động. Đau đớn nhưng cô bé không hề rên la. Sáu Sự cố gắng đem ra sân gạt dòi bọ trên các vết thương, tắm rửa và 15 ngày sau, cô bé đã chết trong nỗi đau đớn tột cùng. Sự việc nầy xảy ra vào năm 1860, Tự Đức năm thứ 12. Ông Trùm Nên ở Chợ Mới kể cho cha Geffroy rằng có một ngày ông hỏi em, khi bị đánh, con có đau lắm không. Em nói rằng “Con cảm thấy đau lắm, nhưng con cố gắng không nghĩ đến chuyện đó nữa. Khi người ta bắt đầu đánh con, thì con cũng bắt đầu đọc kinh bắt đạo và đọc đi đọc lại cho đến hết kinh, con chỉ ngừng đọc khi người ta không còn đánh con nữa”.

Kinh bắt đạo là kinh gì? Ở cuối câu chuyện, Cố Bửu cho biết Kinh nầy được cố Bửu dịch từ sách thiên bằng chữ nôm, in bằng mộc bản tại Gia Hựu năm 1864, bốn năm sau cái chết của em Dần. Như vậy kinh nầy trước đó đã được phổ biến rộng rãi, được giáo dân yêu chuộng để cầu nguyện. Kinh này được in với tựa đề Kinh dốc lòng giữ đạo cho trọn và kèm theo lời dặn “Hễ khi bắt đạo thì hằng ngày ban hôm phải đọc kinh sau nầy”: Lạy Chúa tôi, là Đứng đã dựng trời đất muôn vật, và sinh ra tôi ở đời nầy mà thờ phượng Chúa, nên chính việc tôi phải làm, là tin cậy yêu mến giữ đạo Chúa cho trọn. Mà bởi tội lỗi tôi, nên Chúa đã lấy lòng thương xót mà cho Ngôi Hai xuống thế làm người chịu nạn chịu chết mà cứu lấy tôi, cho khỏi sa địa ngục vô cùng: mà rày tôi chẳng muốn chịu sự khó, mà báo nghĩa Chúa đã thương tôi ngần ấy sao? Ấy vậy từ nầy về sau, dầu tôi phải chịu bắt trói, gông cùm, tù rạc, lưu giam; dầu phải đày đọa, bỏ cha mẹ vợ con của cải; dầu phải gia hình kìm khảo, chết dữ đằn độc ác thế nào vì đạo Chúa, thì tôi sẵn lòng mà chịu những sự ấy, và tin thật mỗi hình khổ mà kẻ dữ làm khổ cho tôi bây giờ, sánh chẳng bằng một chút hình khổ xưa Chúa đã chịu vì tôi. Vã lại sự dữ tôi phải chịu bây giờ, thì chóng qua chóng hết, mà phần thưởng Chúa dành cho tôi trên nước Thiên đàng, thì vô cùng vô tận. Vậy tôi xin Chúa ban ơn sức mạnh vững vàng cho tôi, đặng bền lòng từ nầy về sau thà chịu mọi hình khổ, dầu rất dữ thế nào cho đến chết, chẳng thà bỏ đạo Chúa tôi, cho đặng sống tạm đời nầy mà ngày sau phải chịu hình phạt vô cùng trong địa ngục. Amen.

2. Chuyện một thiếu niên ở Đồng Quả [6]

Năm 1885 là chính lúc giết đạo, có ông hương ngoại đi dạo ruộng gặp một trò chừng 14, 15 tuổi, ở trong núi đi ra, hình vóc ốm o, mặt mày tươi tắn, tay cầm tràng hạt, nên biết là đứa có đạo, thì kêu lại mà hỏi rằng : “Con ở đâu, đi đâu đây?”

Nó rằng : “Tôi ở họ Đồng-quả ; đi trốn trong rừng già kia đã lâu, nay tôi về nhà thờ mà chịu chết.” – “Con gặp ông, thì sống được, ông đem về nhà ông nuôi tử tế, không cho ai biết, miễn là con bỏ cái chuỗi ấy đi, mà xưng mình là cháu ông, ở Phù Ly ra thăm. Làng nầy xa Đồng-quả, không ai biết mặt con đâu mà sợ.” – “Úy ! cái chuỗi nầy là bổn mạng tôi : tôi có cầm trong tay, mới yên trong dạ, không lẽ mà bỏ được. Lại tôi cũng không muốn sống làm chi, một quyết theo cha mẹ bà con tôi về Thiên đàng mà thôi.”

Người đem về nhà cho ăn uống, rồi dỗ ngon dỗ ngọt, cả đêm tới sáng, mà nó cứ nằng nặc xin về chịu chết, thì người rằng : Thôi, con không muốn ở đây, thì con trở vô trốn trong rừng đó, ông liệu đem đồ ăn hằng ngày, cho đến khi bình yên, con sẽ trở về.” – “Cám ơn hai ông bà có lòng tốt, nuôi tôi hôm qua nay, và muốn cứu phần xác tôi cho khỏi chết. Song Chúa tôi sanh dưỡng tôi từ bé đến giờ, muốn cho tôi về cùng Chúa. Xin để cho tôi về, tôi sẽ xin Chúa tôi xuống phước trả ơn cho hai ông bà.”

Nó từ giã đoạn, xăm xúi ra đi, miệng đọc lâm râm, tay cầm tràng chuỗi, bộ tịch vui vẻ, chân bước phấn chấn, khác nào kẻ đi đám vui tiệc sướng vậy. Còn hai ông bà thì rất đỗi thương tiếc, lấy nước mắt ròng ròng mà đưa nó đi cho đến khi khuất mặt, vì biết nay mai nẫu sẽ bắt mà giết. Cách ít bữa nghe nó bị chôn sống, thiệt là rất thảm !

Từ đó hai ông bà cứ ngẫm nghĩ trong lòng rằng : thật có đống phước đâu trên trời, kẻ có đạo thấy, nên ham chết quá ! Rất đỗi là thằng nhỏ chừng đó, mà cũng thiệt ham ! Vì vậy nên cả nhà đã trở lại đạo, và thuật chuyện nầy. Âu là nhờ lời thằng nhỏ cầu xin, như lời nó hứa.

3. Chuyện cha Phêrô Niên [7]

Khi cha Niên còn làm thầy giảng ở Quảng Nam, có một nhà bỏ đạo, người muốn cho nó trở lại hết sức, nên hằng cầu nguyện cho nó, song luống công, mới định tới nhà nó mà an ủi; trước khi ra đi, người vào nhà thờ lần một chuỗi, kêu xin Đức Mẹ đoái thương con chiên xiêu lạc, lần hạt xong ra đi tới ngõ, thấy ngõ đóng, người kêu mở ngõ mà chẳng thấy ai ra, thấy ít con chó ra sủa và muốn cắn mà thôi; người đứng một chặp thấy vắng vẻ, thì trở về lần một chuỗi nữa, đoạn đi tới, kêu mở ngõ, thì có kẻ ra mở, song vô nhà thì chẳng thấy ai ra mặt chào hỏi; người đứng xớ rớ ngó nhìn ba cây cột trong nhà, rồi trở ra về, mà cũng chưa ngã lòng; qua bữa sau người lần một chuỗi nữa và đi như trước, phen nầy tới nhà thì chủ ra rước chào tử tế; người liền an ủi cả nhà trở về đàng chính cùng giữ đạo tử tế lắm.

Trong lịch sử sống đạo hơn 400 năm của dân Chúa Qui Nhơn (Đàng Trong, Đông Đàng Trong, Qui Nhơn) có ba chuyện vậy sao ? Làm sao kể cho hết ? Kẻ hậu sinh chỉ có đọc, chỉ nghe kể, chỉ có biết được ít nhiều. Ba câu chuyện về kinh nguyện bình dân của tiền nhân trong cuộc sống đạo được nêu trên cũng đủ “nét Sony” đối với bần đạo. Ba câu chuyện như là “Câu thơ ba chữ rành rành. Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình là ba”.

III. THỬ NHÂM NHI MỘT SỐ KINH TRONG SÁCH MỤC LỤC CỦA GIÁO PHẬN

1. CÁC KINH CẦU

Giọt tình đức tin đầu tiên ở mỗi kinh cầu là “Xin Chúa thương xót chúng con; Xin Chúa Kitô thương xót chúng con; Chúa Kitô nghe cho chúng con; Chúa Kitô nhậm lời chúng con”. (Mỗi câu đọc hai lần). Đại từ “chúng con” thấm thía lắm: Đại từ nối kết cộng đồng, con cái Chúa không đơn độc, không sống một mình. Những giọt tình đầu tiên ấy là những tiếng kêu, những lời van xin, những nỗi lòng từ những người nghèo của Chúa, những người mù, những người phung cùi, những người cần được Chúa chữa lành, đang ngồi bên vệ đường hành khất từ xưa trong Tin mừng, nay những người nghèo của Chúa trong dòng lịch sử tiếp tục kêu cầu Đấng Cứu độ.

1.1. Kinh cầu Tên Đức Chúa Giêsu

Đây là một kinh đượm chất Kitô học mà các nhà truyền giáo đã làm cho tính thần học của những tước hiệu Kitô học thành “món bình dân” nuôi sống đức tin cho cộng đồng dân Chúa, nói cách khác làm cho Chúa Giêsu gần gũi, thân thiện, dễ hiểu đối với dân Chúa. Sau đây là một số lời kinh tiêu biểu:

Đức Chúa Con chuộc tội cứu thế là Đức Chúa Trời thật.

Chúa Giêsu là Con Đức Chúa Trời hằng sống.

Chúa Giêsu là ánh thanh sạch Chúa sáng láng đời đời.

Chúa Giêsu là vua vinh hiển.

Chúa Giêsu là con Đức Bà Maria đồng trinh.

Chúa Giêsu rất đáng yêu mến.

Chúa Giêsu là Chúa mạnh mẽ.

Chúa Giêsu phép tắc vô cùng.

Chúa Giêsu chịu lụy mọi đàng.

Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

Chúa Giêsu yêu mến chúng con.

Chúa Giêsu là Chúa sự bình an.

Chúa Giêsu là căn nguyên sự sống.

Chúa Giêsu là gương mọi nhân đức.

Chúa Giêsu sốt sắng thương yêu linh hồn người ta.

Chúa Giêsu là chốn chúng con ẩn dật.

Chúa Giêsu là cha kẻ khó khăn.

Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên lành.

Chúa Giêsu là Đấng lòng lành vô cùng.

Chúa Giêsu là đàng cùng là sự sống chúng con.

Chúa Giêsu là sức mạnh các Thánh Tử Vì Đạo.

Chúa Giêsu là sự thanh sạch các Thánh Đồng Trinh.

1.2. Kinh cầu Đức Bà

Cũng như kinh cầu Tên Đức Chúa Giêsu, kinh cầu Đức Bà là pho Thánh Mẫu Học được bình dân hóa cho cộng đồng dân Chúa, cho dân Chúa được gần gũi với Mẹ. Người mẹ thương con, nuôi nấng con, dạy dỗ con, bênh vực con,…

“Đố ai đếm được lá rừng,

Đố ai đếm được mấy tầng trời cao.

Đố ai đếm được vì sao,

Đố ai đếm được công lao mẹ hiền.”

Tình mẹ dành cho con, con yêu mẹ, mẹ là chỗ dựa của con. Tình cảm thiêng liêng ấy được gói ghém qua những câu kinh tiêu biểu:

Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành.

Đức Bà như sao mai sáng vậy.

Đức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn.

Đức Bà bàu chữa kẻ có tội.

Đức Bà yên ủi kẻ âu lo.

Đức Bà phù hộ các giáo hữu.

Nữ Vương các gia đình.

Nữ Vương ban sự Bình An.

Những tín điều về Đức Mẹ có thiếu gì trong kinh cầu đâu:

Rất Thánh Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh.

Đức Mẹ tuyền vẹn mọi đàng.

Đức Mẹ chẳng nhuốm bợn nhơ.

Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông.

Nữ Vương linh hồn và xác lên trời.

1.3. Kinh cầu Ông Thánh Giuse

Kinh cầu chứa đựng một pho tu đức và nhân bản, chẳng hạn như:

Ông Thánh Giuse là Đấng sang trọng bởi dòng Đavít.

Ông Thánh Giuse là Đấng ân cần gìn giữ Chúa Kitô.

Ông Thánh Giuse là Đấng cai quản Thánh Gia Thất xưa.

Ông Thánh Giuse gồm no mọi nhân đức.

Ông Thánh Giuse cực thanh cực tịnh.

Ông Thánh Giuse cực khôn cực ngoan.

Ông Thánh Giuse là Đấng vững vàng mạnh mẽ.

Ông Thánh Giuse chịu lụy mọi đàng.

Ông Thánh Giuse rất ngay chính thật thà.

Ông Thánh Giuse làm gương nhân đức nhịn nhục.

Ông Thánh Giuse yêu chuộng sự khó khăn.

Ông Thánh Giuse là kiểu thức các tài công noi theo.

Ông Thánh Giuse là Đấng làm cho sáng danh gia đạo.

Ngoài tính Kitô học ở kinh cầu Tên Đức Chúa Giêsu, Thánh Mẫu học ở Kinh cầu Đức Bà, Tu đức và Nhân bản ở kinh cầu Ông Thánh Giuse, đời sống tình nghĩa, thảo hiếu, giáo lý… được gởi gắm vào các kinh. 42 lần “thương xót chúng con” ở kinh cầu Tên Đức Chúa Giêsu, 51 lần “cầu cho chúng con” ở kinh cầu Đức Bà, 25 lần “cầu cho chúng con” ở kinh cầu Ông Thánh Giuse, làm sao không ấm lòng, làm sao không tin cậy với những lần khẩn cầu kiên trì như thế ? Đó chính là sống đạo, là thực hành đức tin theo lời Đấng Cứu Độ dạy: Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho… phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,9-13). Còn gì hơn là Thánh Thần: Khôn ngoan, thông hiểu, nhận biết, lo liệu, sức mạnh, đạo đức, úy kính. Bảy ơn Chúa Thánh Thần, rất cần thiết cho đời sống đức tin.

2. MỘT VÀI KINH THƯỜNG ĐỌC

2.1. Kinh Phú Dâng:

Lạy Chúa, con xin phú dâng linh hồn và xác con ở trong tay Chúa. Chúa đã phù hộ con ban ngày thì xin Chúa cũng gìn giữ con ban đêm, kẻo sa phạm tội gì mất lòng Chúa, hay là chết tươi ăn năn tội chẳng kịp. Chớ chi sống chết, con được giữ một lòng kính mến Chúa luôn. Amen.

2.2. Kinh Sáng Soi

Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen.

2.3. Kinh Kính lạy Đức Thánh Thiên Thần

Con kính lạy Đức Thánh Thiên Thần là Đấng gìn giữ con, bởi Đức Chúa Trời lòng lành vô cùng đã phú con cho Đức Thánh Thiên Thần xem sóc, thì con cả lòng xin Đức Thánh Thiên Thần soi sáng gìn giữ, cai quản sửa trị con trong ngày (nếu đọc kinh nầy ban tối thì đọc: trong đêm…) hôm nay và hằng ngày cho đến trọn đời con. Amen.

IV. NHƯ MỘT LỜI KẾT

Những kinh nguyện bình dân tiêu biểu đã nêu, ít nhất ba kinh nguyện bình dân thường đọc, dễ thuộc, dễ nhớ, ít nhưng mà đủ. Đủ để thể hiện đức tin. Sau một ngày làm việc mệt mỏi, nằm trên đống rơm ở góc sân lúa lúc mùa thu hoạch, nằm trên đống rác mía bên lò che lúc đi làm mía, nằm trên bờ ruộng sau một ngày cày ruộng trên nắng dưới nước, rã rời đôi chân, thầm nguyện kinh Phú dâng, đủ để ngủ một giấc an lành. Kinh lạy Đức Thánh Thiên Thần đủ để xác tín “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng”. Cha phép tắc vô cùng ấy đã thương con, đã lo cho con đến độ tạo dựng các Thiên Thần để giữ gìn, xem sóc… đứa con của mình. Sướng lắm, hạnh phúc lắm đấy chứ. Kinh Sáng Soi đủ để xác tín việc mình làm có Cha Toàn Năng hướng dẫn, giúp sức, đỡ nâng. Ba Kinh, ít nhưng mà đủ, đủ để “Dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”. Đủ để một người lính trận ở chiến trường an tâm phó thác cho Cha Toàn Năng của mình. Trong thời bao cấp, những ngày đi làm mía nơi rừng vắng, một anh cựu binh từng tham chiến thời chiến tranh thỏ thẻ khi đêm về: “đọc kinh rồi mới ngủ nghen anh em” – “anh bắt kinh đi”.  “Lạy Chúa, con xin phú dâng linh hồn và xác con ở trong tay Chúa…” – “Ít vậy na anh Năm” – “Đủ rồi. – Hồi xưa khi giữa chiến trường, mỗi tối chỉ đọc thầm kinh này thôi, sống chết trong tay Chúa, phú dâng”.

Có thời còn “đi rảo” nơi này nơi kia để thu thập thông tin, tìm hiểu địa hình địa phương, làm nhè nhẹ vài dòng lịch sử truyền giáo. Ở giáo họ Cầu Máng, giáo xứ Cù Lâm có gặp chị Phượng và anh Hùng.

Chị Phượng, người phụ nữ da đen sạm, ốm o gầy còm, khổ cực, trụ cột chăm lo gia đình, nhà cửa trống trơn, dột nát, người chồng bị tai nạn giao thông, nằm liệt. Chị cũng bị cột sống trong vụ tai nạn hôm ấy. Chị không làm việc nặng được nên không ai thuê mướn… nói chung cuộc sống khá chật vật. Mỗi lần gặp chị, chị luôn nở nụ cười, cười trước, nói sau. “Chị hai, chị khổ vậy mà em thấy chị cười luôn, sao chị cười được vậy chị Hai ?” – chị buột miệng nói liền, không suy nghĩ: “Năm sự Thương, thứ Bốn thì gẫm: Đức Chúa Giêsu vác cây Thánh giá, ta hãy xin cho được vác thánh giá theo chân Chúa. – Khổ lắm, đau lắm, nhất là khi trở trời, con luôn mang thuốc giảm đau trong túi. Khi đau quá, khổ quá, con đọc thầm như thế, con thấy được an ủi lắm đó cha”.

Anh Hùng, một giọng ca cải lương, một thời đi theo gánh hát. Anh bị tai biến, đi lại khó khăn, vợ con bỏ đi, anh ở nhà một mình. Quanh nhà, cỏ dại dù èo ọt yếu ớt nhưng tha hồ ăn hiếp anh. Mỗi lần gặp anh, anh cũng tặng cho bần đạo này chút gương đức tin làm vốn. Anh lạc quan, anh hát vài câu cải lương. “Anh Hùng ơi, khổ dẫy mà còn ca hát được ne anh ?” – “Con nhờ Chúa, con đọc kinh cả ngày, chớ đâu còn sức mà làm gì được nữa” – Anh thích nhất là kinh gì ? “Đấy, Năm sự Thương, thứ Bốn thì gẫm: Đức Chúa Giêsu vác cây Thánh giá, ta hãy xin cho được vác thánh giá theo chân Chúa”.

Hai người cùng cảnh đời đau khổ như nhau, cùng được một lời kinh bình dân tiếp sức cho họ gánh vác cuộc đời mà khổ đau không có cửa thoát.

Những Kinh nguyện bình dân đã nói lên lòng mục tử của cha ông.

Chút tâm lòng của con cháu

Kính dâng Tổ Tiên đã cho chúng con những lời Kinh nguyện bình dân.

Kính nhớ Tổ Tiên đã hy sinh vì đức tin.

Mùa Vọng 2025, 140 năm phong trào Văn Thân (1885-2025),

Viết xong ngày 17/12/2025,

Kỷ niệm 50 năm Trung Tâm Chủng sinh Mằng Lăng (17/12/1975-17/12/2025).

Linh mục Gioan Võ Đình Đệ

Nguồn: tusachnuocman.com

 ———————

[1] FRANCESCO EUGENIO, trong Lettere annve del Giappone, China, Goa, et Ethiopia 1615.1616.1617,1618.1619. Napoli, 1621, trang 401.

[2] JOÃO RODRIGUES GIRÃO, 20.12.1620, ARSI, Jap-Sin 71, fol. 002.

[3] Xem Lời Tựa Sách Kinh Giáo Phận Qui Nhơn, Nxb. Tôn Giáo, 2008.

[4] Mémorial Mission de Qui Nhơn, Novembre 1918, trang 155-162.

[5] Không chịu thua, không chịu chối đạo.

[6] Mémorial Mission de Qui Nhơn, Janvier 1919, trang 5.

[7] Mémorial Mission de Qui Nhơn, No.102, Sept. –Oct. 1913, trang 86-87.