Bài Giảng Của Đức Lêô XIV Tại Libăng: Hỡi Libăng, Hãy Đứng Lên!
Bài Giảng Của Đức Lêô XIV Tại Libăng: Hỡi Libăng, Hãy Đứng Lên!
Vào ngày cuối cùng của chuyến tông du Li-băng, Đức Lêô XIV đã chủ sự Thánh lễ vào thứ Ba, ngày 2/12, tại quảng trường của « Beirut Waterfront », với sự hiện diện của các nhà chức trách chính trị và dân sự, nhiều chức sắc tôn giáo, và hàng ngàn tín hữu, cả Kitô giáo lẫn không Kitô giáo. Trong bài giảng, ngài đã mời gọi người dân Li-băng đứng lên sau bao khó khăn, nhận ra những “chồi non hy vọng”, để “luôn vun đắp thái độ ca ngợi và biết ơn” cũng như cùng nhau hợp lực “để vùng đất này tìm lại được vẻ huy hoàng của nó.”
Dưới đây là bài giảng của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến!
Vào cuối những ngày đầy ý nghĩa này, mà chúng ta đã vui mừng sẻ chia cùng nhau, chúng ta tạ ơn Chúa vì nhiều ân ban nơi lòng nhân từ của Ngài, sự hiện diện của Chúa giữa chúng ta, Lời mà Ngài đã ban dồi dào cho chúng ta và cho phép chúng ta được ở cùng nhau.
Như chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cũng có những lời biết ơn Chúa Cha và, về phần mình, Ngài đã cầu nguyện: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha” (Lc 10,21).
Tuy nhiên, ngợi khen không luôn luôn tìm được chỗ đứng bên trong chúng ta. Đôi khi, bị đè nặng bởi những nhọc nhằn của cuộc sống, lo lắng về nhiều vấn đề xung quanh mình, bị tê liệt bởi sự bất lực khi đối diện với sự dữ và bị đè nén bởi rất nhiều hoàn cảnh khó khăn, chúng ta dễ có khuynh hướng từ bỏ và than trách hơn là ngạc nhiên và biết ơn.
Dân tộc Li-băng thân mến, tôi mời gọi anh chị em vun trồng luôn thái độ ngợi khen và biết ơn. Anh chị em là những người đón nhận vẻ đẹp hiếm có mà Chúa đã điểm tô cho vùng đất của mình. Đồng thời, anh chị em vừa là nhân chứng vừa là nạn nhân của việc sự dữ có thể che khuất vẻ huy hoàng này, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Từ quảng trường nhìn ra biển, tôi cũng có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của đất nước Li-băng được ca ngợi trong Kinh Thánh. Chúa đã trồng những cây tuyết tùng cao lớn của Ngài ở đây, vun trồng và tưới nước cho chúng (x. Tv 104,16). Ngài đã làm cho trang phục của nàng dâu trong sách Diễm Ca nên thơm ngát bằng hương thơm của vùng đất này (x. 4,11); và ở Giêrusalem, thành thánh được khoác lên ánh sáng để chào đón Đấng Mêsia, Ngài loan báo: “Vinh quang của rừng núi Li-băng sẽ đến với ngươi, cả trắc bá, du thụ, hoàng dương cùng một lúc, để làm cho Thánh điện Ta được vinh hiển, vì Ta sẽ làm cho nơi Ta đặt chân được vẻ vang” (Is 60,13).
Thế nhưng, vẻ đẹp này đã bị nghèo khó và đau khổ phủ bóng, những vết thương đã ghi dấu trên lịch sử của anh chị em. Về điểm này, tôi vừa thăm bến cảng để cầu nguyện ở nơi xảy ra vụ nổ. Vẻ đẹp của đất nước anh chị em cũng bị che phủ bởi nhiều vấn đề khiến anh chị em đau buồn, sự mong manh và bối cảnh chính trị thường bất ổn, khủng hoàng kinh tế đầy bi đát đã đè nặng trên anh chị em cũng như bạo lực và xung đột đã gợi lại những sợ hãi khi xưa.
Trong một khung cảnh như thế, lòng biết ơn dễ dàng nhường chỗ cho sự thất vọng, những bài ca ngợi khen không tìm được chỗ trong nỗi phiền muộn của cõi lòng, và niềm hy vọng bị dập tắt bởi sự bất định và hỗn loạn.
Tuy vậy, Lời Chúa mời gọi chúng ta tìm thấy những nguồn sáng nhỏ bé giữa màn đêm, vừa để mở lòng ra cho sự biết ơn vừa thúc đẩy chúng ta hướng đến lời cam kết chung vì lợi ích của vùng đất này.
Như chúng ta đã nghe, lý do mà Đức Giêsu tạ ơn Chúa Cha không phải vì những kỳ công của Người, nhưng bởi vì Chúa Cha đã mặc khải cách đặc biệt sự lớn lao cho những người bé mọn và khiêm nhường, cho những người không được ai để ý và dường như chằng được coi trọng, chẳng đáng gì và không có tiếng nói. Thật vậy, Vương Quốc mà Đức Giêsu đến khai mở được ghi dấu bởi chính đặc điểm mà ngôn sứ Isaia đã miêu tả: đó là một mầm non, một nhánh nhỏ đâm chồi từ thân cây (x. Is 11,1). Đó là dấu chỉ hy vọng nhỏ bé hứa hẹn sự tái sinh khi mọi thứ khác xem ra đang chết dần. Quả thế, sự xuất hiện của Đấng Mêsia được loan báo trong sự bé nhỏ của một chồi non, bởi vì Ngài chỉ có thể được nhận ra bởi những người bé mọn, bởi những người khiêm tốn biết cách nhận ra các chi tiết và dấu vết kín ẩn của Thiên Chúa trong câu chuyện tưởng như đã mất.
Đó cũng là dấu hiệu cho chúng ta, để mỗi người có thể mang những đôi mắt có khả năng nhận ra sự bé nhỏ của chồi non xuất hiện và lớn lên ngay giữa thời kỳ đau thương. Thậm chí ở đây và ngay lúc này, chúng ta có thể nhìn thấy những ánh sáng nhỏ chiếu sáng trong đêm, những chồi non nhỏ bé mọc lên và những hạt mầm bé nhỏ được trồng trong khu vườn khô cằn ở thời đại này của lịch sử. Tôi nghĩ về đức tin chân thành của anh chị em, bén rễ trong các gia đình và được dưỡng nuôi bởi các trường học Kitô giáo. Tôi nghĩ về công việc bền bỉ của các giáo xứ, các dòng tu và các phong trào trong việc đáp ứng những đòi hỏi và nhu cầu của dân chúng. Tôi nghĩ về nhiều linh mục và tu sĩ đã tận hiến đời mình cho sứ mạng giữa nhiều khó khăn, của những người giáo dân đã cống hiến cho các công việc bác ái và việc cổ võ Tin Mừng trong xã hội. Vì những ánh sáng cố gắng rọi sáng vào đêm tối, những chồi non vô hình và nhỏ bé ấy lại mở ra niềm hy vọng cho tương lai, hôm nay chúng ta cùng với Đức Giêsu thưa lên: “Lạy Cha, chúng con ngợi khen Cha!”. Chúng con tạ ơn Cha vì Cha ở bên chúng con và không để chúng con chùn bước.
Đồng thời, lòng biết ơn này không được phép chỉ còn là một sự an ủi nội tâm và hão huyền. Nó phải giúp chúng ta biến đổi tâm hồn, hoán cải đời sống và nhận ra rằng chính Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta để sống dưới ánh sáng đức tin, lời hứa về niềm hy vọng và niềm vui của tình bác ái. Do đó, tất cả chúng ta được kêu gọi vun trồng những chồi non này, không nản lòng, không nhượng bộ cho lôgic của bạo lực và sùng bái tiền của, cũng như không từ bỏ bản thân khi đối diện với sự dữ đang lan tràn.
Mọi người dều phải làm phần việc của mình, và chúng ta phải hợp nhất nỗ lực để vùng đất này có thể trở lại với vẻ huy hoàng trước đây của nó. Làm nguôi giận trong lòng là cách duy nhất để thực hiện điều này. Chúng ta hãy loại bỏ áo giáp của sự chia rẽ chính trị và dân tộc, mở rộng các tín ngưỡng tôn giáo cho sự gặp gỡ lẫn nhau và gợi lại trong lòng chúng ta ước mơ về một nước Li-băng hiệp nhất. Một Li-băng nơi mà hòa bình và công lý ngự trị, nơi mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em, và sau cùng, nơi mà những lời của ngôn sứ Isaia có thể được ứng nghiệm: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau” (Is 11,6).
Đây là ước mơ được trao phó cho anh chị em; đó là điều mà Thiên Chúa hòa bình đặt để trong tay anh chị em. Đứng lên nào, hỡi Li-băng! Hãy trở nên ngôi nhà của công lý và tình huynh đệ! Hãy là dấu chỉ ngôn sứ của nền hòa bình cho toàn thể miền Cận Đông!
Thưa anh chị em, tôi cũng muốn nhắc lại lời của Đức Giêsu: “Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha!”. Tôi dâng lời tạ ơn Chúa vì đã sẻ chia những ngày này với anh chị em. Trong khi mang những khổ đau và niềm hy vọng của anh chị em trong lòng mình, tôi cầu nguyện để vùng đất này của miền Cận Đông có thể luôn được chiếu sáng bởi niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, mặt trời công lý. Tôi cũng cầu nguyện để nhờ ân sủng của Chúa Kitô, đất nước Li-băng sẽ kiên tâm vững chí trong niềm hy vọng vốn không làm thất vọng.
———————————————
Lời kêu gọi cuối Thánh Lễ
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày này của chuyến Tông Du đầu tiên của tôi, được diễn ra trong Năm Thánh này, tôi muốn đến đây như là lữ khách của niềm hy vọng cho miền Trung Đông, khẩn nài Thiên Chúa ban ơn hòa bình cho vùng đất thân yêu này, bị ghi dấu bởi sự bất ổn, chiến tranh và đau khổ.
Các Kitô hữu của miền Cận Đông quý mến, khi nỗ lực vì hòa bình của anh chị em dường như chưa mang lại kết quả, tôi mời gọi anh chị em ngước mắt lên Chúa, Đấng đang đến! Chúng ta hãy nhìn lên Ngài với niềm hy vọng và lòng can đảm, mời gọi mọi người tiến bước trên con đường của sự chung sống, tình huynh đệ và hòa bình. Hãy trở nên những người xây dựng, những sứ giả, và chứng nhân của hòa bình!
Vùng Trung Đông cần những lối tiếp cận mới, để loại bỏ tâm thức trả thù và bạo lực, để vượt qua những chia rẽ chính trị, xã hội và tôn giáo, cũng như để mở ra những chương mới nhân danh hòa giải và hòa bình. Con đường của sự thù địch và phá hoại lẫn nhau trong nỗi kinh hoàng của chiến tranh đã kéo dài quá lâu, với những hậu quả đáng thương xảy ra trước mắt mọi người. Chúng ta cần thay đổi tiến trình, chúng ta cần giáo dục trái tim mình vì hòa bình.
Từ quảng trường này, tôi cầu nguyện cho vùng Trung Đông cũng như hết mọi người dân đang chịu đau khổ vì chiến tranh. Tôi cũng dâng những lời cầu nguyện đầy hy vọng vì một giải pháp hòa bình cho những tranh chấp chính trị hiện tại ở Guinea-Bissau. Tôi cũng không quên những nạn nhân, cùng gia đình thân yêu của họ, của vụ hỏa hoạn ở Hồng Kông.
Tôi đặc biệt cầu nguyện cho đất nước Li-băng thân yêu! Một lần nữa, tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế không tiếc sức trong việc xúc tiến những quá trình đối thoại và hoà giải. Tôi gửi lời kêu gọi chân thành đến những ai đang nắm quyền chính trị và xã hội, ở đây và nơi mọi quốc gia bị tàn phá bởi chiến tranh và bạo lực: lắng nghe tiếng khóc than của người dân đang kêu cầu hòa bình! Tất cả chúng ta hãy dấn thân phục vụ sự sống, công ích và sự phát triển toàn diện của con người.
Cuối cùng, với anh chị em Kitô hữu của miền Cận Đông, những công dân của vùng đất này bằng mọi sự tôn trọng, tôi nhắc lại: Hãy can đảm lên! Toàn thể Giáo Hội hướng đến anh chị em với lòng trìu mến và cảm phục. Xin Đức Trinh Nữ Maria, Đức Mẹ Harissa, chở che anh chị em luôn mãi.