Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa, thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Đức Giê-su.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
3 Hôm đó, ông Phao-lô nói với dân chúng : “Tôi là người Do-thái, sinh ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a, nhưng tôi đã được nuôi dưỡng tại thành này ; dưới chân ông Ga-ma-li-ên, tôi đã được giáo dục để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt. Tôi cũng đã nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa như tất cả các ông hiện nay. 4 Tôi đã bắt bớ Đạo này, không ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà, 5 như cả vị thượng tế lẫn toàn thể hội đồng kỳ mục có thể làm chứng cho tôi. Tôi còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Đa-mát, và tôi đi để bắt trói những người ở đó, giải về Giê-ru-sa-lem trừng trị.
6 “Đang khi tôi đi đường và đến gần Đa-mát, thì vào khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi. 7 Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi : ‘Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta ?’ 8 Tôi đáp : ‘Thưa Ngài, Ngài là ai ?’ Người nói với tôi : ‘Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ.’ 9 Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. 10 Tôi nói : ‘Lạy Chúa, con phải làm gì ?’ Chúa bảo tôi : ‘Hãy đứng dậy, đi vào Đa-mát, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm.’ 11 Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy nữa, nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát.
12 “Ở đó, có ông Kha-na-ni-a, một người sùng đạo, sống theo Lề Luật và được mọi người Do-thái ở Đa-mát chứng nhận là tốt. 13 Ông đến, đứng bên tôi và nói : ‘Anh Sa-un, anh thấy lại đi !’ Ngay lúc đó, tôi thấy lại được và nhìn ông. 14 Ông nói : ‘Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Người, được thấy Đấng Công Chính và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra. 15 Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về các điều anh đã thấy và đã nghe. 16 Vậy bây giờ anh còn chần chừ gì nữa ? Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Người.”
Đ.Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng.
1Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa,
ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người !
Đ.Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng.
2Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.
Đ.Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Ha-lê-lui-a.

Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
15 Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông rằng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”
(Nguồn: ktcgkpv.org)
___________________
Suy niệm 1: Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
XIN HỢP NHẤT CHÚNG CON NÊN MỘT TRONG TÌNH YÊU CHÚA
SUY NIỆM LỄ THÁNH PHAO-LÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI
Nói đến thánh Phao-lô là nói đến mầu nhiệm ơn gọi tông đồ cũng như sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa trên cuộc đời sứ vụ của ông.
Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một chàng có tên gọi là Sao-lô, ở Tac-xô, là người Do thái, trí thức, có thể nói ông là người đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Ga-ma-li-ên ở Giê-ru-sa-lem, nhiệt thành đến nỗi, tham gia vào vụ giết Tê-pha-nô và rong ruổi mọi đường Đa-mát truy lùng các Kitô hữu.
Nói đến Phao-lô là nói đến sự cải đạo của ông
Đối với Phao-lô, con đường Damas là con đường thiên mệnh, con đường của Ý Trời. Con đường ấy đã thay đổi con người và cuộc đời của Phao-lô 180 độ. Và con đường đó cũng đã thay đổi hoàn toàn chiều hướng của lịch sử nhân loại.
Trong ánh sáng huy hoàng, Chúa Ki-tô phục sinh đã ngỏ lời và đối thoại với Sao-lô. Thần Khí của Đấng Phục sinh đã tác động và thay đổi hoàn toàn con người của ông. Ánh sáng ấy làm cho Sao-lô mù mắt, diễn tả sự mù quáng của ông trước việc bắt bớ các Ki-tô hữu. Sự mù lòa còn tượng trưng cho sự “vô tri”: Sao-lô không thấy Thiên Chúa, không biết Thiên Chúa, mà cứ tưởng như mình biết.
Chúa Ki-tô Phục sinh muốn nhờ Giáo hội, qua Phép rửa, giải thoát Sao-lô khỏi sự “u mê lầm lạc”, vô tri. Phao-lô đã được thấy lại nhờ ánh sáng của Chúa qua Phép rửa, bấy giờ mới nhận biết Đức Ki-tô và khám phá ra Thiên Chúa, chính là Cha của Đức Giê-su Ki-tô. Phao-lô ngã xuống đất và suốt ba ngày không nhìn thấy, không ăn, không uống, giống như người “chết rồi mới sống lại với Chúa”. Sao-lô được thông phần cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su, được Chúa Cha mạc khải cho biết mầu nhiệm tử nạn Phục sinh của Chúa Giê-su. Từ đó trở nên “chứng nhân” được sai đi loan báo Tin Mừng Phục sinh cho các dân ngoại.
Rõ ràng là Ý Trời, Trời đã can thiệp vào cuộc đời của Sao-lô bằng tình yêu đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã nói qua miệng ông Kha-na-ni-a, và Phao-lô sau này lập đi lập lại nhiều lần. Thiên Chúa đã tuyển chọn Sao-lô một người duy nhất giữa muôn người. Cú ngã ngựa trên đường Đa-mát, biến Sao-lô thành chứng nhân vĩ đại là Phao-lô, một người ngoài nhóm 12 tông đồ, để trao cho sứ mạng làm “Tông đồ Dân ngoại”, biệt danh này không ai có, ngoại trừ Phaolô. Từ đây cuộc đời của Phao-lô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông đồ đã sống và đã chết cho Đức Ki-tô.
Ý Trời hay ý muốn của Chúa Giê-su, Người mà ông đã ghét cay ghét đắng, căm thù đến tận xương tủy, khi chưa có dịp gặp, mà chỉ nghe nói đến do những kẻ thù của Chúa. Nhưng khi ông đã gặp Chúa Giê-su, tất cả đều thay đổi.
Chúa Ki-tô Phục sinh đã đổi mới tư tưởng và trái tim của Phao-lô. Không biết Đức Giê-su tại thế, Phao-lô đã ghét cay ghét đắng và sát hại không thương tiếc các môn đệ của Người. Giờ đây trái tim của Phao-lô được Chúa Giê-su chiếm lĩnh như chiếm đoạt trái tim của người yêu (Pl 3, 12 ). Và Phao-lô trở nên như một “người tình” của Chúa Giê-su, đến nỗi Phao-lô phải thú nhận: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ).
Đúng như Phao-lô viết: “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5, 14), tất cả nhiệt tình nơi con người và cuộc đời Phao-lô đều phát xuất từ mối tình đó: Tình yêu của Chúa Ki-tô là “chủ thể yêu thương Phao-lô”, Tình yêu Chúa Ki-tô là “đối tượng mà Phao-lô yêu mến”. Tâm trí của Phao-lô đã hoàn toàn mở ra cho Chúa Ki-tô, và vì thế có khả năng mở rộng cho mọi người. Phao-lô trở nên tất cả cho mọi người (1 Cr 9, 12), sẵn sàng làm mọi sự cho “Tin Mừng tình yêu” mà người rao giảng.
Phao-lô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Ki-tô. Biết mình đã tin vào ai, Phao-lô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9,3-18; 2 Cr11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Ki-tô. Phao-lô không ngại hùng hồn kể về những ”… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; phải chịu đủ thứ nguy hiểm và ra vào tù nhiều lần.
Nói đến Phao-lô là nói đến vị tông đồ của mọi thời đại
Phao-lô đã trở thành vị “Tông đồ của mọi thời đại”. Là Do thái với người Do Thái, Hy Lạp với người Hy Lạp, là người tự do, nhưng trở thành nô lệ của mọi người để phục vụ mọi người (1 Cr 9, 19 – 21), Phao-lô cũng có thể là Việt Nam với người Việt Nam, là Thái với người Thái, Phi với người Phi, Hàn Quốc với người Hàn Quốc.
Không những là “con người của tình yêu”, Phao-lô còn là “con người của chân lý”. Đối với Phao-lô, chân lý là “Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô” “Chân lý về một Tình Yêu mạnh hơn sự chết”, đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy từ cõi chết, trở thành nơi hội tụ của toàn thể nhân loại, toàn thể thế giới thụ tạo của Thiên Chúa.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 57 ngày cầu nguyện cho sự Hiệp nhất các Ki-tô hữu, chúng ta cùng cầu xin Chúa cho chúng ta tuân hành giới luật yêu thương, hầu chúng ta có thể gặt hái được nhiều hoa trái. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để nguyện vọng của Chúa Giê-su được hoàn thành, tất cả chúng nên một: tình hiệp nhất luôn luôn cao trọng hơn những xung đột. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ (Tgp. Hà Nội)
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org
______________________
Suy niệm 2: Giuse Lm Nguyễn Hữu An
Cú ngã ngựa lịch sử – Lễ Thánh Phao lô Tông đồ trở lại
Đọc lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức,thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Được ơn trở lại qua cú ngã ngựa trên đường Đamat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô,Tông Đồ dân ngoại. Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca.Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Cuộc sống buôn ba vì Nước Trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân,bắt bớ, đói khát,trần truồng, nguy hiểm,gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống,dù thiên thần hay thiên phủ,dù hiện tại hay tương lai,hay bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác,không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng ta ” (Rm 8,35-39).
Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã viết rằng: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hylạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Nhưng tại sao Giáo Hội không chọn trong số những hình ảnh đẹp ấy, mà lại lấy hình ảnh ngã ngựa để đem mừng kính trong một ngày lễ? Thưa vì đó là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời ngài ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa mà Giáo hội mừng kính hôm nay.
1. Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
– Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi “tại sao?” đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là “Phaolô” đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
– Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận “tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi”
– Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do Thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do Thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
– Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
– Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: “Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi”.
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa nhật, tổng GP sài gòn, tháng 01.2008).
2. Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông.Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi,Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô.Từ đó trở đi,chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì “Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó,tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô.Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ,là bất lợi cả,vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô,Chúa tôi.Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô,và được thuộc về Ngài,không có sự sông chính của riêng tôi,sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô …( Pl 3,7-9).Từ đó trở đi,Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất,sự bình đẳng,tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: “vì anh em,phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô,thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp;không còn nô lệ hay tự do;không còn nam hay nữ;vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gal 3,27-28).Vì Đức Kitô là “tất cả mọi sự và trong mọi người” ( Col 3,11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô.Biết mình đã tin vào ai,Phaolô đã sung sướng sống nghèo,lấy việc lao động mà đổi miếng ăn,không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cor 9,3-18; 2 Cor11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô.Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những “… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết,năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một,ba lần bị đánh đòn,một lần bị ném đá,ba lần bị đắm tàu,một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi “phải thực hiện nhiều cuộc hành trình,gặp bao nguy hiểm trên sông,nguy hiểm do trộm cướp,nguy hiểm do đồng bào,nguy hiểm vì dân ngoại,nguy hiểm ở thành phố,trong sa mạc,ngoài biển khơi,nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc,thường phải thức đêm,bị đói khát,nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” ( 2 Cor 11, 23-27).Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê,người môn đệ có khi không khỏi nao núng:” anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta,cũng đừng hổ thẹn vì tôi,là kẻ bị tù vì Ngài”. Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai …(2 Tim 1,8-12).Vì đức Kitô “tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi,nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích” ( 2Tim 2,9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình ” Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2 Cor 12,9).Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy “chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn;lâm bĩ nhưng không mạt lộ;bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt”( 2Cor 4,8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng”( 1Cor 5,14)..Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài ” tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa,là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”( Gal 2,20).
3. Những cú “ngã ngựa” trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô.Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (x. 2 Tm 4,6-8; Rm 8,18-19.32.33.38.39)
Nhìn vào biến cố “ngã ngựa” của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú “ngã ngựa”. Có những cú “ngã ngựa” trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú “ngã ngựa” trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú “ngã ngựa” trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú “ngã ngựa” trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe…
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn “ngã ngựa” chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn “ngã ngựa” như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam – Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. “Tội hồng phúc” là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú “ngã ngựa” của Thánh Phaolô hôm nay là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu “ngã ngựa” là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org
______________________
Suy niệm 3: Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo! ” (Mc 16:15)
Quý ông bà và anh chị em thân mến,
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy ra đi loan báo Tin Mừng. Loan báo Tin Mừng là ơn gọi của mỗi người Kitô hữu và cũng là lời trăng trối của Đức Kitô Phục Sinh trước lúc về trời. Để thực hiện lời trăng trối này, chúng ta cần đặt trọn niềm tin vào Chúa cùng với một con tim yêu mến chân thành dành cho Thiên Chúa và ước muốn của Người. Thật không dễ cho bất cứ Kitô hữu nào hiện thực hóa lời mời gọi của Đức Giêsu. Tuy nhiên, giữa những con người yếu đuối, giới hạn và tội lỗi, vẫn có một số ít người thực thi lời trăng trối của Đấng Phục Sinh, điển hình là thánh Phaolô.
Để Phaolô trở thành một nhà loan báo Tin Mừng chuyên nghiệp, ngài đã trải qua một quá trình hoán cải và chìm đắm trong sự kết hiệp với Thầy Giêsu. Chúng ta hãy đọc lại toàn bộ cuộc đời của ngài trong Sách Công vụ Tông đồ và các Thư Phaolô để hiểu sâu hơn cuộc hoán cải trở về với Thiên Chúa và tin vào Thầy Giêsu, đáp trả lời mời gọi và cộng tác với Thầy loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho muôn người của thánh nhân.
Thánh Phaolô đã hoán cải như thế nào? Từ một con người chống đối Đạo Kitô, bách hại các Kitô hữu đầu tiên, cho đến biến cố ngã ngựa trên đường đi Đa-mát với dụng tâm tàn sát người theo Đạo, thánh Phaolô đã trở nên một con người hoàn toàn khác, mạnh mẽ làm chứng cho sứ mạng của Thầy Giêsu, bảo vệ và thăng tiến đức tin cho những ai đặt niềm tin vào Thầy Giêsu, cũng như canh tân đời sống các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên và đời sống đức tin cho các Giáo hội thuở sơ khai. Có thể nói sự hoán cải của thánh Phaolô là sự hoán cải tận căn, tâm trí của ngài được gội sạch bởi ơn thánh của Đấng Phục Sinh, một tâm trí ngang tàng, hống hách, tự cao tự đại, phủ nhận công trình cứu độ của Chúa Cứu Thế, lên án những kẻ tin theo Chúa Kitô là mê muội và lầm lạc… Như thế, hoán cải chính là một sự thay đổi tâm trí tận căn (metanoia). Nói cách khác, hoán cải là quá trình hoàn tất biến đổi một tâm trí lầm lạc trở nên đúng đắn và hợp với thánh ý Thiên Chúa, từ đó toàn tâm toàn ý phục vụ cho sứ mạng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Hoán cải thì khác với “hối hận” hoặc “ân hận”. Hoán cải đòi buộc con người phải hành động tốt hơn, nghĩa là trước đó tôi không làm, bây giờ tôi “hoán cải” nên tôi làm, tựa như câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về hai người con được sai đi làm vườn nho vậy (x. Mt 21:28-32).
Chiêm ngắm cuộc trở về với Đức Kitô của thánh Phaolô, chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với ơn Chúa để thực hiện một cuộc hoán cải tận căn, thay đổi tâm trí để hoàn toàn tùy thuộc vào thánh ý Thiên Chúa, từ đó trở nên người thợ gặt lành nghề lao tác không mệt mỏi trên cánh đồng của Chúa. Chỉ khi chúng ta có kinh nghiệm về sự hoán cải, kinh nghiệm bản thân mình là tội nhân đích thực nhưng được Chúa xót thương, mời gọi trở nên tông đồ của Người, chúng ta sẽ có đủ nội lực để loan báo Tin Mừng của Chúa cách hiệu quả trong sự bình an, tươi vui và tự do mà thôi.
Giờ cầu nguyện sắp tới, chúng ta hãy chất vấn bản thân mình rằng “tôi đã hoán cải chưa? Sự hoán cải của tôi có giống sự hoán cải của thánh Phaolô không? Nếu chưa thực sự hoán cải, tôi có dám xin Chúa ban ơn hoán cải trong tâm trí để trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng từ chính kinh nghiệm hoán cải của bản thân không?”
Chúc quý vị cầu nguyện sốt sắng!
___________________________
WGPKT(24/01/2024) KONTUM