Trần Đức Hòa – Quan Phủ Qui Nhơn: Ông Bõ Đỡ Đầu Công Cuộc Truyền Giáo Ở Đàng Trong, Bà Đỡ Khai Sinh Chữ Quốc Ngữ

“Có những người nhân hậu, mà việc thiện của họ không bao giờ bị lãng quên. Dòng dõi họ được hưởng hạnh phúc, và họ sẽ có con cháu nối dòng, miêu duệ họ trung thành với lời giao ước và con cái họ nhờ họ cũng được trung thành. Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ. Thân xác họ được chôn cất bình an, tên tuổi họ sẽ sống đời này qua đời nọ. Sự khôn ngoan của họ cộng đoàn truyền tụng, và công hội thuật lại lời ngợi khen họ.” (Hc 44, 10-15)

1. Thân thế

2. Tham gia việc nước

3. Cống quận công Trần Đức Hòa, Khám lý Qui Nhơn – Ông Bõ đỡ đầu công cuộc truyền giáo Đàng Trong

4. Cống quận công Trần Đức Hòa, Khám lý Qui Nhơn, Bà đỡ khai sinh chữ Quốc ngữ

5. Cống quận công Trần Đức Hòa, Khám lý Qui Nhơn tiến cử Đào Duy Từ

6. Cống quận công Trần Đức Hòa, Khám lý Qui Nhơn, người có “hộ khẩu thường trú” trong lòng dân

7. Kết

1. Thân thế

“Trần Đức Hòa là người huyện Bồng Sơn thuộc Bình Định. Cha là Ngọc Phân, làm quan với nhà Lê tới chức Phó tướng dinh Quảng Nam. Hòa tính hào mại, nhờ là con nhà tướng nên buổi đầu được ấm thụ là Hoằng tín đại phu đổi làm Cẩm y vệ Đô Chỉ huy sứ thụ Vệ sự, nhờ có quân công được phong làm Khám lý Quy Nhơn, Cống quận công”.[1]

2. Tham gia việc nước

Ngày 28 tháng 7 năm 1564, đời vua Lê Anh Tông (Chính Trị thứ 7) Trần Đức Hòa được thụ chức Hoằng tín đại phu, thuộc ban dưới.[2]Ngày 12 tháng 6 năm 1585, vua Lê Thế Tông (Quang Hưng thứ 8) ban Sắc thăng chức: Trần Đức Hòa đã được đặt biệt nâng lên hàng Phụ quốc Thượng Tướng quân…trụ quốc trật giữa. Vì từng phục vụ trong quân đội,… được triều thần đề nghị đáng thăng tước Cống quận công.[3] Nay thăng Trần Đức Hòa… tước Cống quận công, trụ quốc trật trên…[4]

Trong việc tổ chức bộ máy hành chánh, vào năm 1602 chúa Tiên – Nguyễn Hoàng thiết lập chức Khám lý: Năm Nhâm Dần Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế thứ 45 (Lê Hoằng Định thứ 2 – 1602) đổi phủ Hoài Nhân thành phủ Qui Nhân, đặt các chức Tuần phủ, Khám lý vẫn lệ vào dinh Quảng Nam”.[5]

 Vậy chức Khám lý của Cống quận công Trần Đức Hòa được Đại Nam Liệt Truyện nói trên là chức vụ gì?

Theo Từ điển chức quan Việt Nam: “Tháng 9 năm Ất Mùi (1595) đặt chức Khám lý để quyết đoán những ngục tụng còn nghi ngờ. Nhưng sau bãi bỏ vì các chức quan này không giữ đúng phép tắc. Trong thời của chúa Nguyễn ở các phủ từ Quảng Nam trở vào đặt chức Khám lý làm phó cho các Chánh hộ thu thuế”. [6] Tác giả từ điển chỉ nói thời chúa Nguyễn đặt chức khám lý làm phó cho các Chánh hộ thu thuế mà không xác định thời chúa Nguyễn nào.

Cũng theo Từ điển chức quan Việt Nam, Chánh hộ là quan thu thuế một phủ phía nam Kinh thành Phú Xuân thời chúa Nguyễn. Từ điển không cho biết chức quan Chánh hộ được lập từ thời chúa nào.[7]

Chức Chánh hộ Khám lý được Lê Quý Đôn ghi: “Tại xứ Quảng, Năm Ất Tỵ – 1725,[cuối thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), đầu thời chúa Nguyễn Phúc Chú (1725-1738)] vua Lê Dụ Tông – Bảo Thái thứ 6, đặt Chánh hộ khám lý tại mỗi phủ.”[8]

Đại Nam thực lục viết: “Buổi quốc sơ, bờ cõi một ngày một mở mang, chia đặt cả cõi làm 12 dinh… Duy hai phủ Quảng Nghĩa và Qui Nhơn lệ thuộc vào dinh Quảng Nam, thì đặt riêng chức Tuần phủ và chức Khám lý để cai trị.”[9]

Đại Nam nhất thống chí viết: Năm Nhâm Dần Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế thứ 45 (Lê Hoằng Định thứ 2 – 1602) đổi phủ Hoài Nhân thành phủ Qui Nhân, đặt các chức Tuần phủ, Khám lý vẫn lệ vào dinh Quảng Nam”.[10]

Đối chiếu bản dịch Đại Nam thực lục và Đại Nam nhất thống chí nêu trên với bản chữ Hán Đại Nam thực lục và Đại Nam nhất thống chí đều ghi: “巡撫勘理 – Tuần phủ Khám lý”.[11] Riêng bản Thực lục cho biết mục đích lập chức Tuần phủ Khám lý để cai trị (). Bản Đại Nam nhất thống chí không nói mục đích.

Trong bản tường trình, Linh mục Borri dùng từ “Governatore di Pulucambi” để chỉ vị quan cai trị phủ Pulucambi – phủ Qui Nhơn. Chẳng hạn, việc quan phủ Qui Nhơn đưa các thừa sai từ Hội An về Qui Nhơn, có đoạn viết: Các bến này gần các thị tứ và những phố của phủ QuảngNghĩa (Quanghia), nơi mà ông có quyền của một nhà cầm quyền như ở phủ Qui Nhơn (Pulucambì) của ông (ò Città grandi della Provincia di Quanghia, nella quale haveva la medesima autorità il Governatore, che nella sua di Pulucambì)….”.[12]

Linh mục Borri kể: Một hôm ông lập phiên tòa trong sân nhà chúng tôi [ở Nước Mặn], theo cách thức chúng tôi đã nói về tục lệ xứ Đàng Trong. Trong phiên tòa này ông xử mấy người trọng tội (quivi si fecero le cause di molti rei), mỗi người đều được xử theo tính chất tội phạm của họ. Trong số đó có hai người bị kết án tử hình bằng cách bắn tên, trong khi họ đang bị trói thì chúng tôi can thiệp và xin quan tha cho họ. Ông lập tức ân xá và ra lệnh cởi trói cho họ (due furono condennati ad essere saettati, e mentre si legavano, c’interponessimo noi à supplicare per il perdono, e ci fè subito la gratia).[13]

Ông (Governatore di Pulucambi) cũng nghe theo lời chúng tôi thỉnh cầu trong rất nhiều trường hợp, mỗi lần có vụ xử một trọng tội nào. Chúng tôi chưa mở miệng xin ân xá thì ông đã bằng lòng ban ngay rồi.[14]

Những từ ngữ mà Linh mục Borri dùng trong các đoạn tường thuật được nêu trên “phân minh xét xử” “thanh liêm trong việc cai trị“, “mỗi lần có vụ xử một trọng tội nào “, “ông xử mấy người trọng tội” cho thấy Governatore di Pulucambi không phải là một ông quan thu thế mà là một quan cai trị, đứng đầu phủ.

Governatore di Pulucambi – Quan phủ Pulucambi (Qui Nhơn)” mà các thừa sai Dòng Tên nói đến, ông là ai?

Trong thư của Linh mục Buzomi viết năm 1617 cho biết “Governatore di Pulucambi”là một quan chức của triều đình, hứa với các thừa sai, các cha tạm ẩn ở Taifo (Hội An), ông sẽ sớm đến Taifo, ông sẽ đưa hai cha đi cùng.[15]

Governatore di Pulucambithực hiện lời hứa. Tháng 7.1618,[16] ông đưa các thừa sai về Nước Mặn, cấp đất, làm nhà cho các thừa sai. Linh mục Borri tường trình việc này trong sách của ông.[17] Linh mục Borri cũng cho biết Governatore di Pulucambi có người con rễ quê ở Nước Mặn. Người con rễ này được chúa Nguyễn cử làm sứ thần đi Cam-Bốt. Ông là người vị vọng nhất sau quan phủ:

Trước khi lên đường đi sứ sang Cam-Bốt, vợ chồng sứ thần học giáo lý và lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy cùng với thê thiếp và một số thân hữu của ông. Bà nhận thánh Orsola (Ursula), Ông nhận thánh Ignatio làm bổn mạng.[18]

Về lễ tang của “Governatore di Pulucambi” mà Linh mục Borri, người trong cuộc được quan phủ Qui Nhơn bảo trợ đưa về Nước Mặn, người trong cuộc được chứng kiến việc qua đời và việc an táng vị quan cai trị phủ Qui Nhơn, Linh mục Borri cho biết linh cữu được đưa về an táng ở “Chifu”, quê quán của ông, cách tư dinh, “nơi ông qua đời” 03 ngày đường.[19]

Địa danh “Chifu” được Linh mục Borri viết theo cảm âm của một người Ý. Trong các sử liệu, mỗi người phương Tây ký âm mỗi khác cho dù vẫn cùng một địa danh, chẳng hạn sông Lại Giang:

– Annam Đại Quốc Họa Đồ của Taberd, năm 1838 ghi là Cửa Tà Phù.

– Bản đồ Birma, Siam, Kamboja Und Annam do Dr. A.Bastian và H.Kiepert xuất bản tại Đức năm 1867 ghi là Ti-fu.

– Bản đồ L’indo-Chine Oriental, 1881 ghi là R. Taï-phou (Sông Taï-phou).

– Ngoài ra, trong các sử liệu của các nhà truyền giáo vùng phủ Qui Nhơn xưa còn cho biết: Chifu (1622), Ti-phu (1683), Thi-phu (1747),Thay-phu (1750) là tên một họ đạo thuộc phía Bắc sông Lại Giang.

– Theo tổ chức các trạm trên đường thiên lý thời Nguyễn, mỗi trạm cách nhau nửa ngày đường (khoảng 20 -25 km), vậy Borri cho biết khoảng cách từ dinh về Chifu là 03 ngày đàng, điều nầy cùng với những nguồn sử liệu truyền giáo và các bản đồ xưa xác định được địa danh “Chifu”, vùng đất ở phía bắc sông Lại Giang, thuộc thị xã Hoài Nhơn (cũ) là nơi sinh quán của vị quan quá cố.

Theo Lời “Phàm lệ” của Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên có 10 ý, trong đó ý thứ 6 và 10 được viết như sau:[20]

6. Chư thần ai có công nghiệp rõ rệt hay có tiết nghĩa nên chép thì không kể quan chức cao thấp đều ghi thành truyện, ngoài ra hoặc lấy nhỏ phụ theo lớn, hoặc lấy dưới phụ theo trên, theo loại mà chép .

10. Sự tích trong Liệt truyện đều theo sách Thực lục và tham khảo thêm hành trạng gia phả, đó là những điều hỏi han tìm tòi được ở ngoài, nếu gặp các việc thật có căn cứ đều chép hết.

Governatore di Pulucambi là vị quan nhà Nguyễn được quan yêu dân chuộng như Borri đã tường thuật, thế thì sử quan nhà Nguyễn không thể lãng quên một người “bầy tôi” trung quân ái quốc như thế. Vậy Governatore di Pulucambi được ghi chép ở Liệt Truyện tên gì? Mộ ông hiện ở đâu?

Liệt Truyện chép về Trần Đức Hòa có đoạn:

Khi Hy tông hoàng đế nối ngôi, Đức Hòa thường cùng mưu tính việc quân quốc, rất được thân yêu tin dùng, chúa thường gọi là “nghĩa đệ”. Gặp lúc Nam Bắc dùng binh, trong coi nhiều việc, Đức Hoa đã ở Quy Nhơn lâu ngày, trong thì vỗ về dân chúng, ngoài thì cung cấp quân lương, triều đình rất trông cậy… Sau khi chết được tặng là phúc thần, dân ở Bồ Đề lập đền để thờ.

Năm Bính thân, Hiển tông hoàng đế thứ 25 (1716) [21] cho cháu được miễn sai dịch, lại cấp cho 10 mẫu ruộng thờ. Năm Gia Long thứ 4 (1805) được xếp vào hạng công thần khai quốc bậc nhất, phong cho một người trong hậu duệ được thể tập làm Đội trưởng để giữ việc thờ cúng, cấp cho 9 mẫu ruộng thờ, 4 người phu giữ mộ. Con là Đức Nghị, làm quan tới chúc Phó Đề đốc Quy Ninh (sau đổi là Quy Nhơn). [22]

Quả vậy, Tường trình của Borri và Quốc sử quán Triều Nguyễn, đặc biệt Đại Nam Liệt truyện Tiền biên đã cho thấy Governatore di Pulucambi chính là Khám lý Cống quận công Trần Đức Hòa chứ không ai khác.

3. Cống quận công Trần Đức Hòa, Khám lý Qui Nhơn – Ông Bõ đỡ đầu công cuộc truyền giáo Đàng Trong

Ngày 18.01.1615, các thừa sai Dòng Tên đặt chân lên cửa biển Đà Nẵng. Các thừa sai còn chân ướt chân ráo, mùa thu năm 1616 trời hạn hán, không có nước làm mùa, nạn đói đe dọa. Dân chúng cho rằng trời hạn hán là vì các thần nổi giận khi thấy nhiều người bỏ đạo cũ theo đạo mới, để đền miếu hoang vu. Muốn làm cho các thần nguôi giận thì cần phải đuổi các giáo sĩ Tây dương đi khỏi xứ. Do đó, dân chúng yêu cầu chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên trục xuất các thừa sai. Một đàng chúa Sãi muốn giữ các thừa sai lại để bảo đảm việc liên lạc thương mại với người Bồ, một đàng cần trấn an dân chúng. Chúa sãi chọn giải pháp an dân nên cho mời các thừa sai đến và thông báo ý của mình. Vào khoảng đầu tháng 06 năm 1617, tất cả các thừa sai đã xuống thuyền, nhưng thuyền không thể xuất bến vì gặp gió ngược. Các thừa sai phải lên bờ nhưng dân chúng không cho vào làng, đành phải trở lại sống lẩn lút trong một cánh đồng đầy nắng gió gần biển.

Trước tình cảnh như vậy, với lý trí con người, xem ra công cuộc truyền giáo vừa mới chớm nở, đã đi vào bế tắc. Tuy nhiên, Thiên Chúa có cách hành động không như suy nghĩ của con người. (Is 55,8)

May mắn thay, các thừa sai được Khám lý Tuần phủ Qui Nhơn – Cống Quận Công Trần Đức Hòa, người có tương quan mật thiết với chúa Sãi, giúp đỡ.[23] Trước hết, Ông đưa cha Buzomi về Nước Mặn để chữa bệnh. Cha Pina và Tu huynh người Nhật tá túc, ẩn mình trong nhà các Kitô hữu Nhật kiều ở Hội An.[24]

Vào một ngày trong tháng Bảy năm 1618, Cống Quận Công Trần Đức Hòa đưa các thừa sai Dòng Tên đang gặp nạn vềphố cảng Nước Mặn, một thương cảng thuộc quyền của ông. Ông cấp đất, làm nhà, tài trợ đời sống hằng ngày.[25]Nhờ sự bảo trợ đó, Nước Mặn là Cư sở đầu tiên của các thừa sai được thành lập. [26] Khoảng cuối năm 1619, Cư sở thứ hai được thành lập tại Hội An.[27] Năm 1625, Cư sở thứ ba được thành lập tại Dinh Chiêm, Quảng Nam.[28] Đây là ba trung tâm truyền giáo được các thừa sai Dòng Tên thiết lập,đặt nền cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Đàng Trong.

Bản báo cáo năm 1618 cho biết ngay trong năm 1618, tại cư sở Nước Mặn có một thanh niên mười sáu tuổi, lanh lợi và thông minh, giỏi Hán văn, được dân làng yêu mến. Anh là một tân tòng, tên thánh rửa tội là Phêrô, giúp các thừa sai biên dịch sang tiếng địa phương một sách giáo lý gồm các kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Tin Kính, Mười điều răn mà các kitô hữu đã biết. Ngoài ra còn có các điều phải tin, trong đó có tín điều chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi rất thánh, mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Cứu chuộc, sự cần thiết của Đức tin và các bí tích thánh để được dự phần công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô. Tất cả các Kitô hữu chép lại những điều đó và bắt đầu lần hạt Mân côi như chúng ta (tín hữu Âu châu)

– Bản báo cáo năm 1619 cho biết lúc bấy giờ tại Đàng Trong có 02 cư sở là Nước Mặn và Hội An.

Phần báo cáo về cư sở Nước Mặn cho biết: Quyển sách Giáo lý được dịch sang ngôn ngữ địa phương tại Nước Mặn vào năm 1618là phần đầu sách giáo lý của Đức Hồng y Bellarmino(chữ La Tinh).

Thư báo cáo về tình hình truyền giáo tại Đàng Trong năm 1620, doLinh mục Gaspar Luis viết tại Macao vào ngày 17.12.1621, cho biết quyển sách giáo lý này hiện đang được sử dụng trong công cuộc truyền giáo tại địa phương (Đàng Trong) rất hữu hiệu. Linh mục Gaspar Luis cho biết: Quyển sách bổn bằng tiếng Đàng Trong đã đem lại nhiều lợi ích; không chỉ trẻ nhỏ thấu hiểu mà còn cả người lớn tuổi cũng am tường…Nó cũng giúp cho những tín hữu Nhật trong việc thuyết phục được những người vợ của họ đã cưới trước đây mà chưa có phép cưới [trong đạo].[29]

Theo báo cáo thường niên năm 1620, các thừa sai tại Nước Mặn đã rửa tội được 180 người. Các thừa sai thường xuyên ở tại Nước Mặn trong những năm đầu: Linh mục Francesco Buzomi (Ý), Linh mục Cristoforo Borri (Ý), Linh mục Francisco de Pina (Bồ), Tu huynh Antonio Diaz (Bồ). [30]

Đầu năm 1620 địa bàn truyền giáo của Đàng Trong được chia làm hai vùng do hai nhóm thừa sai ở hai cư sở phụ trách.[31] Địa bàn cư sở Nước Mặn gồm ba tỉnh phía Nam của Đàng Trong : “Quagnin, Poulocambì, e Ranràn – Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên”, dưới sự lãnh đạo của Linh mục Buzomi.[32] Phía Bắc Đàng Trong do các thừa sai tại Cư sở Hội An đảm trách do Linh mục Marques lãnh đạo.

4. Cống quận công Trần Đức Hòa, Khám lý Qui Nhơn, Bà đỡ khai sinh chữ Quốc ngữ

Cố Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã phát biểu tổng kết Hội thảo “Bình Định với chữ Quốc ngữ” được tổ chức tại thành phố Quy Nhơn vào ngày 13.01.2016: “Trên cơ sở những chứng cứ hiện nay, có thể kết luận, chữ Quốc ngữ trong trạng thái phôi thai, ra đời sớm nhất ở ba trung tâm: Nước Mặn, Hội An và Dinh Chiêm, trong đó Nước Mặn có phần sớm hơn.[33]

Trong số những chữ Quốc ngữ đầu tiên mà Linh mục Borri đã ghi lại tại Nước Mặn, trong đó có câu nói của ông Sãi Lý trú trì một ngôi đền ở gần nhà các thừa sai tại Nước Mặn: “Tuijciam, Biet[34] – [Tui chẳng biết]. Nêu chữ “Tuij”ở đây vì chẳng những cái dáng mà còn cái âm của nó, âm giọng miền Trung Trung Bộ, cách riêng âm giọng đặc sệt của Bình Định[35] “nậu tui” đã bền bỉ “trơ gan cùng tuế nguyệt” từ hơn 400 năm nay. Ngày nay chữ “tui” vẫn mang cái dáng và cái âm dung dị ấy len lỏi hiện diện trong ngôn ngữ đời thường của người Bình Định như:

– “Nậu tui” để xưng hô ở ngôi thứ nhất số nhiều nhằm diễn tả những người cùng nghề, cùng chỗ ở, cùng sinh hoạt, cùng nhóm hay cùng hoàn cảnh…

– Trong ca dao:

Thương chồng phải luỵ mụ gia/ Chớ tui với bã có bà con chi!”

“Chim liễu bó biểu chim quỳnh/ Biểu to biểu nhỏ, biểu mình thương tui“.

– Trong Bài chòi Bình Định:

Câu thai cho con bài Bát Bồng:

“Chầu rày đã có trăng non/ Để tui lên xuống có con em bồng”.

Câu thai cho con bài Bạch Huê:

“Con vợ tui tốt tợ tiên sa/ Coi trong thiên hạ ai mà dám beng (dám bì, dám sánh)/ Lưng khòm rồi lại da đen/ Còn hai con mắt tợ khoen trống chầu/…”

Quả vậy, chữ Quốc ngữ hôm nay chúng ta đang dùng đã có một khởi đầu. Việc khởi đầu sáng tạo chữ Quốc ngữ là một sáng kiến của các thừa sai dòng Tên phát xuất từ nhu cầu truyền giáo cho người Việt. Công cuộc khởi đầu ấy là công việc được đóng góp từ công sức của nhiều người, trong đó thành phần chủ chốt đầu tiên là số thừa sai dòng Tên làm việc tại cư sở Nước Mặn ở giai đoạn giữa năm 1618 đến đầu năm 1620.

Ngoài ra phải kể đến sự tham gia và đóng góp của những người Việt Nam mà người đầu tiên phải kể đến là Cụ Trần Đức Hòa, quan phủ Qui Nhơn. Việc các thừa sai gặp nạn ở Cửa Hàn, có thể ví như mấy anh em trong một gia đình đang lâm cảnh không nơi nương tựa. Cụ Trần Đức Hòa là một nhà hảo tâm quảng đại. Cụ cưu mang, đùm bọc những con người đang lâm cảnh đáng thương nầy. Tháng 7 năm 1618, Cụ đã đưa các thừa sai dòng Tên về Qui Nhơn. Cụ cấp đất tại Nước Mặn, xây dựng nhà cửa, cấp lương thực cho các thừa sai. Cụ lo cho những người nầy có điều kiện tốt nhất để đi tìm con chữ mà hôm nay chúng ta được thừa hưởng. Vì vậy, Cụ xứng đáng được gọi là “Bà đỡ” khai sinh chữ Quốc ngữ. Danh tính của Cụ không thể thiếu trong danh sách những người đầu tiên chúng ta ghi ơn. Trong số những người đầu tiên tiêu biểu ở giai đoạn đầu nầy còn có những vị Sãi, người thanh niên mười sáu tuổi có tên thánh bổn mạng là Phêrô, anh Augustinô – thông ngôn người Đàng Trong của linh mục Buzomi, những người buôn bán và bà con nông dân Việt Nam ở tại thương cảng Nước Mặn mà các thừa sai được tiếp xúc hằng ngày, những thương nhân Nhật Bản với vai trò thông ngôn dù chỉ biết lèo tèo một số từ cần thiết trong giao dịch thương mại.

5. Cống quận công Trần Đức Hòa, Khám lý Qui Nhơn tiến cử Đào Duy Từ

Vừa là dưỡng tử của chúa Tiên,[36] vừa là người được nhà chúa tín nhiệm giao cho những trọng trách, vừa là nghĩa đệ của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên,[37] Cống quận công Trần Đức Hòa thường lui tới với chúa Sãi để cùng chúa bàn mưu định kế việc quân việc nước, trong đó có việc tiến cử Đào Duy Từ.

Việc Cống quận công Trần Đức Hòa tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Sãi được các sử sách ghi chép:

– Theo Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí, vào năm Đinh Mão, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ chín (1627). [38]

– Theo Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên thì nhân cuộc mừng chiến thắng quân Trịnh ở Nhật Lệ vào năm thứ 14 Hy Tông Hoàng Đế, Đinh Mão (1627). [39]

– Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì vào năm Hy Tông thứ 11 (1623).[40]

– Theo Đại Nam Thực lục tiền biên thì vào năm Đinh Mão (1627)[41]

Như vậy:

Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, ít nhất Cụ Trần còn tại thế cho đến năm 1623 vàtheo Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí, Đại Nam Thực lục tiền biên, Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên thì cụ Trần còn sống ít nhất cho đến năm 1627.

Về tuổi tác của Đào Duy Từ:

– Theo Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí thì năm Ất Sửu, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ bảy (1625), Thanh Đô vương Trịnh Tráng xuống lệnh mở khoa thi chọn học trò, lúc ấy Đào Duy Từ được hai mươi mốt tuổi, thông kinh sử nhưng không được dự thi vì là con nhà ca xướng. Vì thế Đào Duy Từ phải nuốt giận trở về…. Từ đó Đào Duy Từ ngày đêm suy nghĩ để tìm phương kế lập thân… Nghĩ vậy, nên khoảng trung tuần tháng mười, Đào Duy Từ một mình đốt hương vái biệt phần mộ cha mẹ, ông bà tổ tiên, rồi lên đường vào Thuận Hoá, thuộc Nam triều.[42] Theo đây thì Đào Duy Từ sinh năm 1604 (1625-21=1604).

– Theo Đại Nam Thực lục tiền biên thì Đào Duy Từ bệnh nặng và qua đời vào mùa Đông năm Giáp Tuất (1634), thọ 63 tuổi.[43] Theo đây thì Đào Duy Từ sinh năm 1571 (1634-63=1571).

Các nguồn sử khác liên quan đến Đào Duy Từ:

– Theo Binh Thư Yếu Lược – Hổ Trướng Khu Cơ, thời Lê Thế Tôn (1573-1599), trong cuộc chiến phò Lê diệt Mạc, Nguyễn Hoàng đánh nhà Mạc ở Hải Dương, Đào Duy Từ đã tham gia quân ngũ, biết dùng binh lược giúp Nghĩa Lộc hầu, con Bảng quận công, chiến thắng quân Mạc. Nghĩa Lộc hầu giới thiệu Đào Duy Từ cho Nguyễn Hoàng. Duy Từ giúp đại vương làm nên bá nghiệp ở cõi Nam làm khai quốc công thần, phong Lộc Khê hầu. Theo đây, Đào Duy Từ và Nguyễn Hoàng đã biết nhau.[44] Việc Nguyễn Hoàng tham chiến tại Hải Dương được Quốc sử quán ghi lại 03 lần: năm 1593, 1594 và 1598.[45]

– Theo tường trình của Borri, khi Borri còn ở Đàng Trong, tức trước năm 1622, ở Đàng Trong có cuộc nội chiến do hai người em thân tín mà chúa phải lo dẹp loạn. Borri chỉ cho biết sự kiện mà không cho biết năm nào.[46]

Sự kiện này theo Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí, năm Vĩnh Tộ thứ hai (1620) hai em cùng cha với chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên câu kết với chúa Trịnh lập mưu phản. Chúa Sãi phát hiện cuộc mưu phản và dẹp xong cuộc mưu phản này. Chúa sai mở yến tiệc xét công, ban khen các tướng, khao đãi ba quân, trọng thưởng cho Tuyên Lộc. Bấy giờ muôn dân chúc mừng. Thế mới hay rằng bề tôi phản vua, con bội cha, em lật anh đều không yên vẹn được.[47]

Như vậy, ngoài cuộc chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên khao mừng chiến thắng quân Trịnh vào năm 1627, chúa Sãi còn có cuộc khao mừng không kém phần trọng thị sau khi dẹp loạn nội phản. Việc Đào Duy Từ được tiến cử, có thể được xảy ra trong dịp khao mừng này chăng?

Khi chúng tôi tiếp cận nguồn sử của các thừa sai Dòng Tên, những người đương thời với Khám lý phủ Qui Nhơn, Cống quận công Trần Đức Hòa, cho biết về việc cụ Trần đã qua đời:

Linh mục Borri kể rất tỉ mỉ từ lúc Cống quận công hấp hối cho đến khi tắt thở, tẩm liệm, an táng. Ông kể được như thế vì ông là người chứng kiến, có mặt trong suốt tiến trình cuối đời người từ khi hấp hối cho đến tang lễ và đến hết thời gian cư tang (03 năm). Chính Linh mục Borri xác nhận ” ba linh mục chúng tôi đều có mặt trong dịp long trọng này“.[48] Mặc dù trong tường trình, Linh mục Borri không ghi rõ thời điểmCống quận công Trần Đức Hòa qua đời, tuy nhiên với chi tiết trong tường trình về đời sống và hoạt động của các thừa sai tại Nước Mặn sau khi Khám lý phủ Qui Nhơn qua đời: “Ba năm trôi qua như vậy,chúng tôi lâm cảnh thiếu thốn những nhu cầu vật chất nhưng đó không phải là nỗi đau khổ lớn lao… chúng tôi phải đau khổ nhiều vì trong ba năm đó, chúng tôi rất nỗ lực và nhọc công nhưng chỉ có một ít người theo đạo…”.[49] Năm 1622, Linh mục Borri trở về Châu Âu, [50] làm việc ở Châu Âu và qua đời ở Châu Âu vào năm 1632.[51] Như vậy, các chi tiết vừa nêu trong tường thuật của Linh mục Borri cho ta biết Cống quận công Trần Đức Hòa qua đời vào năm 1619, trước khi Linh mục Borri về Châu Âu 03 năm.

Lại nữa, theo Báo cáo thường niên do Linh mục João Rodrigues Girão tổng hợp tại Macao ngày 20.12.1620, gởi cho Kinh Lược Sứ của Dòng về hoạt động của các thừa sai tại Cư sở Nước Mặn vào năm 1619 vẫn được Ông Đề Lĩnh, người con cả của Khám lý phủ Qui Nhơn đối xử tử tế với các thừa sai như cha của ông, sau khi cha của ông qua đời:[52]

Qua những gì đã nêu trên, chúng tôi thiển nghĩ nguồn sử của các thừa sai dòng Tên đã cho chúng tôi độ tin cậy xác thực về thời điểm Khám lý phủ Qui Nhơn – Cống quận công Trần Đức Hòa qua đời. Do đó, việc Đào Duy Từ được Cống quận công Trần Đức Hòa tiến cử phải xảy ra trước khi ông qua đời (1619). Và như thế một vấn đề được đặt ra: Đào Duy Từ phải vào Đàng Trong trước năm 1619?

6. Cống quận công Trần Đức Hòa, Khám lý Qui Nhơn, người có “hộ khẩu thường trú” trong lòng dân

Khi còn sống, Khám lý Qui Nhơn là người được quan chuộng dân yêu. Quan Khám lý Qui Nhơn trong khi sống đã được người ta tôn trọng không những trong tỉnh của ông mà cả khắp nước, vì những đức tính tự nhiên của ông như một người xét xử phân minh (in sommo grado la giustitia), khôn ngoan tột bậc, công bằng và thanh liêm trong việc cai trị (governo con una piacevolezza), được mọi người tín nhiệm, với tinh thần đại lượng và lòng thương giúp người bần cùng cơ cực. [53]

Trong thời gian ba năm cư tang, chúa Nguyễn Phúc Nguyên không cắt đặt một quan cầm quyền nào khác, vì mọi ngươi đều tin chắc là hồn vị quan cầm quyền quá cố được liệt vào hàng thần thánh, ngài có thể tự mình cầm quyền trong ba năm đó. Trong khi chờ đợi, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đặt người con của vị quan cầm quyền phủ Qui Nhơn (Governatore di Pulucambi) vừa quá cố làm Phó Tuần phủ kiêm Đề lãnh.[54]

Nhân dân Bồ Đề, quê hương của Cống quận công lập Đền thờ tại thôn Hy Văn, xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn (nay thuộc phường Hoài Nhơn 7).[55] Đền thờ cụ thuộc khu vực có tục danh là Đồng Trang, hiện nay thuộc khu vườn nhà ông Trần Đức Quyền, cháu trong dòng họ. Theo các cụ cao niên cho biết, đền thờ có tường rào cổng ngõ bao quanh. Mái lợp ngói. Đền thờ bị sụp đổ trong chiến tranh. Tại địa điểm di tích còn dấu tích hai đường móng.[56] Gia tộc Trần Đức vẫn còn giữ hình ảnh Đền thờ. Mộ Cụ tại thôn An Đỗ, xã Hoài Sơn, được công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2005.

Ngày 03.01.2025, UBND tỉnh Bình Định ban hành Quyết Định số 18/QĐ-UBND, Xếp hạng Di tích cấp tỉnh: Bổ sung Nơi Tưởng niệm Cống quận công Trần Đức Hòa (tại Tài Lương, Hoài Thanh Tây – nay thuộc phường Hoài Nhơn 4) vào di tích Mộ Cống quận công Trần Đức Hòa, xã Hoài Sơn, Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định đã được xếp hạng tại Quyết định số 333/QĐ-UB ngày 20.5.2005 của UBND tỉnh Bình Định (tại An Đỗ, Hoài Sơn).

7. Kết

Mỗi thời đại, các chức danh trong xã hội được nhà cầm quyền thiết lập, tên gọi có thể giống nhau nhưng nhằm một mục đích, nhằm một nhiệm vụ khác nhau. Căn cứ những sử liệu đã nêu trên, chức Khám lý Qui Nhơn mà cụ Trần Đức Hòa được chúa Nguyễn Hoàng bổ nhiệm năm 1602 là để cai trị như Đại Nam Liệt truyện chép (bản Hán) chứ không phải chức quan thu thuế được lập Năm Ất Tỵ – 1725.

Với những nguồn sử liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn cùng với hành trạng của “Governatore di Pulucambì” được Linh mục Borri kể trong Tường trình, cho thấy Khám lý phủ Qui Nhơn mà Cống quận công Trần Đức Hòa được bổ nhiệm từ năm 1602 là chức quan đầu phủ, khác với chức Chánh hộ Khám lý được lập năm 1725. Nói cách khác, Cống quận công Trần Đức Hòa làm quan phủ Qui Nhơn dưới hai thời chúa Nguyễn (chúa Nguyễn Hoàng và chúa Nguyễn Phước Nguyên). [57]

Liên quan đến danh tướng Đào Duy Từ, người được Cống quận công Trần Đức Hòa tiến cử cho chúa Sãi trong các nguồn sử được nêu trên,[58] đã để lại những tồn nghi về tuổi tác của Đào Duy Từ, về thời điểm Đào Duy Từ vào Đàng Trong và thời điểm Cống quận công tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Sãi.[59] Đây là vấn đề lịch sử cần được các nhà nghiên cứu thâm sâu, làm sáng tỏ.

Bài viết này như nén hương lòng tri ân Ông Bõ đỡ đầu công cuộc truyền giáo ở Đàng Trong và các thừa sai Dòng Tên, nhân dịp 410 năm đoàn thừa sai Dòng Tên đầu tiên đã đến Đàng Trong (1615-2025).

Thật vây, nói như thừa sai Linh mục Borri, mốc điểm cho việc truyền giáo ở Việt Nam có tính khoa học, lịch sử rõ ràng: “Trước khi các cha Dòng chúng tôi tới Đàng Trong, người Bồ quen đem theo từ Malacca và từ Macao một vài tuyên úy khi đến buôn bán ở xứ này, để dâng thánh lễ và làm các phép bí tích trong suốt thời gian họ làm việc thương mại, thường là ba hay bốn tháng liền. Cũng giống như trường hợp người Iphanho đem theo từ Manila. Nhưng vì các linh mục tới xứ đó không có nhiệm vụ nào khác ngoài việc phục vụ người Bồ, nên các ông không lo về ích lợi và tiến triển thiêng liêng của dân xứ này và không muốn vất vả học tiếng của họ, không chú tâm truyền ánh sáng Phúc âm cho họ… Thiên Chúa quan phòng đã an bài như vậy để dành việc gieo trồng ruộng vườn này cho công việc và lao khổ của các con cái thánh Inhaxu”.[60]

Quả vậy, các thừa sai Dòng Tên với sứ mệnh truyền giáo có tổ chức, có phương pháp, đã đến Đàng Trong ngày 18.01.1615 tại Cửa Hàn- Đà Nẵng,[61] đến Đàng Ngoài ngày 19.3.1627 tại Cửa Bạng – Thanh Hóa.[62] Từ đó, các thừa sai Dòng Tên đã đặt được nền móng cho việc Tòa thánh thiết lập hai địa phận Tông tòa ở Đại Việt (Việt Nam) vào ngày 09.9.1659.

Lm. Gioan Võ Đình Đệ

Nguồn: WHĐ (11.09.2025) 



[1] Xem QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Liệt Truyện tiền BiênCao Tự Thanh dịch và giới thiệu, Nxb. Khoa học Xã hội, 1995, trang 136.

[2] Trần Đức Hòa được tập ấm (nhờ chức vị của cha). Cha ông là Dương Đàm Hầu Trần Ngọc Phân (tước Hầu), do đó người con trưởng được phong Hoằng Tín Đại Phu, hàm chánh ngũ phẩm. (xem ĐỖ VĂN NINH, Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 2002, tr.93).

[3] Công là tước đứng đầu trong 5 tước: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Khi mới đặt, chỉ phong ban cho Hoàng tộc, về sau mở rộng phong cho cả đại thần. (xem ĐỖ VĂN NINH, Sđd, tr. 152).

[4] LỘC XUYÊN ĐẶNG QUÝ ĐỊCH, Trần Đức HòaTư liệu, Nxb. Văn hóa Dân Tộc, Hà Nội 2004, trang 36.

[5] QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Nhất Thống Chí, Bản đời Tự Đức, Viện sử học, Quyển IX, tái bản lần thứ 2, Nxb. Thuận Hóa, Huế 2006, tập III, trang 7.

[6] ĐỖ VĂN NINH, Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 2002, tr.353, mục từ Khám lý.

[7] ĐỖ VĂN NINH, Sđd, trang 127, mục từ Chánh hộ.

[8] LÊ QUÝ ĐÔN, Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.147.

[9] QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Thực lục I, Viện Sử học,(Tái bản lần thứ nhất), Nxb. Giáo Dục,tr. 135

[10] QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Nhất Thống Chí, Bản đời Tự Đức, Viện sử học,Quyển IX, tái bản lần thứ 2, Nxb. Thuận Hóa, Huế 2006, tập III, trang 7.

[11] Xem:

– 大南寔錄前編 – Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 10, tr.13, Tokyo, Japan, 1961.

– 大南一統志 – Đại Nam nhất thống chí, quyển 9, tr.2, Thư viện Quốc gia Việt Nam, mã kho: R.790. Mã số hóa: nlvnpf-0140-08.

[12] CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesu, al Regno della Cocincina, Roma 1631, trang 127-128.

[13] CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione…, sđd. Trang 133-134.

[14] CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione…, sđd. Trang 128.

[15] AL MRP. GENERALE DELLA COMPAGNIA DI GIÊSU, Lettere Annue Del Giappone China, Goa, et Ethiopia, Napoli 1621, trang 379. Lúc bấy giờ Buzomi được Governatore di Pulucambiđưa về Dinh của ông ở Nước Mặn để chữa bệnh.

[16] DANIELLO BARTOLI, Dell’ Historia della Compagnia di Giesu, terza parte Dell’Asia, Roma 1663, trang 708.

[17] CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione…, sđd, trang 127-138.

[18] CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione…, sđd, trang 163-174.

[19] CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione…, sđd. Trang 148.

[20] QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, ĐNLT Tiền Biên, bản dịch Cao Tự Thanh, nxb. Khoa học Xã Hội, 1995, trang 59-60.

[21] Chỉ thị đề ngày 12 tháng 9 năm 1715, tính theo đời vua Vĩnh Thịnh (Lê Dụ Tông) năm thứ 12. Đại Nam Liệt Truyện ghi theo ngày chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) ban hành, theo đó là năm thứ 25 (1716).

[22] Xem QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Liệt truyện tiền biên, bản dịch Cao Tự Thanh, trang 136.

[23] Khi biết được chúa Sãi bị giằng co, một đàng muốn giữ các thừa sai lại để bảo đảm việc liên lạc thương mại với người Bồ, một đàng cần an dân, nên với tư cách là người thâm tình của chúa Sãi, ông Trần Đức Hòa mạnh dạn đưa các thừa sai về Nước Mặn, một công việc vừa gói ghém tình nghĩa đối với chúa Sãi, vừa để an dân, vừa thể hiện đức nhân của bậc quân tử.

[24] Xem CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nouva misione…, Roma 1631,trang 112-126.

Từ các chi tiết trong tường thuật của Linh mục Borri về các sự kiện “không có lụt thường xảy ra vào mùa thu để gieo lúa” dẫn đến việc các thừa sai phải “bước xuống thuyền nhưng không ra khỏi bến được vì gặp gió ngược, thứ gió mùa thổi dằng dai đến ba bốn tháng”; “Quan phủ Qui Nhơn đưa cha Buzomi về Qui Nhơn để chữa bệnh, suốt một năm”, chúng tôi thiển nghĩ:

(1). Về sự kiện hạn hán xảy ra vào mùa thu năm 1616. Ở Nam Trung Bộ, mùa mưa dầm sinh ra lụt lội thường xảy ra trong khoảng thời gian từ giữa mùa thu cho đến giữa mùa đông (khoảng tháng 10 đến tháng 11 dương lịch). Theo kinh nghiệm dân gian, phải sau ngày 23.10 âm lịch, nông dân mới “xuống giống”. Bởi vì kinh nghiệm cho biết “Ông tha Bà cũng không tha/ Cho nên có lụt hăm ba tháng mười (âm lịch). Có thể sau ngày 23.10 âm lịch năm 1616, nông dân Cửa Hàn chờ mãi mà không thấy mưa. Họ tìm lý do để lý giải hiện tượng bất thường của thiên nhiên. Cuối cùng, họ đổ trách nhiệm cho các thừa sai mà hậu quả là các thừa sai phải ra đi.

(2). Về việc ba thừa sai xuống thuyền theo lệnh chúa Sãi vào khoảng đầu tháng 06 năm 1617, xem thư báo cáo của Học viện Macao năm 1617 do Antonio de Souza viết xong tại Macao vào ngày 08.01.1618, đoạn cuối phần báo cáo về miền truyền giáo Đàng Trong.

– Trong khoảng thời gian này là cuối mùa gió nồm, gió từ biển (hướng Đông Nam) thổi vào vùng ven biển Nam Trung Bộ. Người địa phương thường nói “nồm già hay nồm săn” để chỉ những lúc gió nồm thổi mạnh. Những lúc đó sóng rất lớn, những con tàu buồm thô sơ thuở ấy không thể nào cưỡng gió để ra khơi được. Mùa gió nồm, thuyền từ biển vào bến thì thuận lợi vì thuận theo chiều gió, do đó ca dao trong vùng có câu: “Lạy Bà cho nổi gió nồm/ Chồng tôi còn ở ngoài khơi chưa về”; “Gió lên bớ bà Vọng Phu/ Chồng bà nhờ gió thuyền mau trở về”. Ngoài ra, khi các thừa sai không thể ra khơi được vì sự cố “nồm già”, dân chúng thua thiên nhiên, nhưng không cho ba thừa sai vào làng. Ba thừa sai phải “phơi mình liên tục dưới cái nắng nóng như thiêu của mặt trời xứ này”, mùa nắng như thế chỉ có nơi tháng 06-07 của mùa hè ở xứ này.

– Theo dõi các chuyến Linh mục Đắc Lộ theo tàu buôn Bồ Đào Nha từ Macao vào – ra Đàng Trong từ năm 1640-1645 (Vào: tháng 02.1640; 12.1640; 01.1642; 01.1644. Ra: tháng 08.1640; 07.1641; 07.1643; 07.1645), chúng ta thấy thời gian thuận lợi cho tàu xuất bến ra khỏi Đàng Trong là vào khoảng tháng 07 và tháng 08. Thời điểm này là mùa gió nam (gió Lào), gió từ đất liền thổi ra biển theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, thuận lợi cho tàu thuyền đi về Macao. Cư dân địa phương gọi là “nam cồ” khi gió nam thổi mạnh; khi gió nam thổi nhẹ gọi là “nam non”.

[25] Xem CHRISTOFORO BORRI, sđd, tr. 127-138.

[26] Xem Lettera Annuale del Collegio di Macao l’anno 1618 trong Lettere Annue del Jappone China, Goa, et Ethiopia, Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, trang 400-401. Thời điểm Cư sở Nước Mặn được thành lập, biên thùy phía Nam của Đàng Trong là phủ Phú Yên, được giới hạn tạiThạch Bi Sơn (núi Đá Bia, Đèo Cả).

[27] Xem Annua de Cochinchina de 619, ARSI. JAP-SIN, fol. 002-012.

[28] Xem Báo cáo thường niên năm 1624, ARSI. JAP-SIN 68, trang 11-12. Và báo cáo thường niên năm 1625, ARSI, JAP-SIN 71, f. 56-71.

[29] Xem GASPAR LUIS, ARSI. JAP-SIN 71, fol. 016.

[30] Đỗ Quang Chính SJ., Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt, Antôn & Đuốc Sáng, USA 6/2006, tr. 66.

[31] Daniello Bartoli, Dell’ Istoria Della Compagnia Di Gesù La Cina, Terza Parte, Libro Terzo, trang 327 .

[32] Daniello Bartoli, sđd., Terza Parte, Libro Quarto, trang 60 .

[33] PHAN HUY LÊ, “Tổng kết Hội thảo Khoa học: Bình Định với chữ Quốc ngữ“, trong UBND TỈNH BÌNH ĐỊNH, Bình Định với chữ Quốc ngữ. Kỷ yếu Hội thảo, Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr. 618.

[34] CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova missione…sđd, trang 194.

[35] Mặc dù về mặt hành chánh, nay là tỉnh Gia Lai (sau ngày 01.7.2025), nhưng âm giọng vùng miền không thể thay đổi.

[36] Lộc xuyên ĐẶNG QUÝ ĐỊCH, sđd, trang 46. Chỉ thị của chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu, ngày 12 tháng 9 Vĩnh Thịnh năm thứ 12 (1715) về việc miễn sưu thuế cho con cháu Cống Quận ông Trần Đức Hòa: “…Khám lý Cống Quận công Trần Quí Công (Đức Hòa) từng được chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) nhận làm dưỡng tử…”

[37] Việc chúa Sãi gọi Trần Đức Hòa là “nghĩa đệ” như Liệt Truyện chép đã cho chúng tôi tồn nghi: Khi Trần Đức hòa được tập ấm (1564) thì chúa Sãi mới được một tuổi (sinh ngày 28 tháng 7 năm Quý Hợi, tức ngày 16 tháng 8 năm 1563). Như thế Trần Đức Hòa có độ tuổi lớn cách biệt chúa Sãi. Trần Đức Hòa là dưỡng tử của chúa Tiên. Như thế tương quan giữa chúa Sãi và Trần Đức Hòa là anh em nghĩa dưỡng chứ không phải “nghĩa đệ – em kết nghĩa”.

[38] Xem NGUYỄN KHOA CHIÊM, Nam Triều Công Nghiệp diễn chí, Bản dịch Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga, Nxb. Đại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp, Hà Nội 1990, Hồi thứ bảy.

[39] Xem VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Liệt truyện Tiền Biên, tái bản lần thứ hai, nxb. Thuận Hóa, Huế 2006, Q. 3, Các Bề tôi.

[40] Xem VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Nhất Thống Chí, tái bản lần thứ hai, nxb. Thuận Hóa, Huế 2006, tập 3, trang 60.

[41]Xem VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Thực lục tiền biên, sđd,bản điện tử.

[42] Xem NGUYỄN KHOA CHIÊM, sđd, Hồi thứ sáu.

[43] Xem VIỆN SỬ HỌC, Đại Nam Thực lục tiền biên, Tập I, tái bản lần I, nxb. Giáo Dục, 2001, bản điện tử.

[44] TRẦN HƯNG ĐẠO- Binh Thư Yếu Lược – Hổ trướng khu cơ, bản dịch Nguyễn Ngọc Tỉnh và Đỗ Mộng Khương, Nxb. Công an Nhân dân, 2002 trang 474

[45] QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Thực Lục, Tập I – tiền biên, bản dịch Viện Sử Học, Nxb. Giáo dục , Hà Nội 2002,Trang 33-24

[46] CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nouva Missione delliPP. della Compagnia … Roma 1631, tr. 90.

[47] NGUYỄN KHOA CHIÊM, Sđd, Hồi thứ Năm.

[48] Lúc bấy giờ tại cư sở Nước Mặn có 03 linh mục: Buzomi, Borri và Pina.

[49]CHRISTOFORO BORRI, sđd,trang 154.

[50] Xem L.CARDIÈRE, Annotations a la Lettre de Gaspar Luis, B.A.V.H. Juillet-Dec. 1931, trang 415.

[51] Xem OLGA DROR AND K.W. TAYLOR, editor and annotator,“Views of Seventeenth-Century Viet Nam Cristoforo Borri on Cochinchina and Samuel Baron on Tonkin”, Cornell University, Ithaca New York, 2006, trang 57.

[52] JOÃO RODRIGUES GIRÃO, Annua de Cochinchina de 619 , Archivum Romanum Societatis Iesu, Jap-Sin 71, fol. 008v-012.

[53] CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione…, sđd. Trang 147.

[54] CHRISTOFORO BORRI,Relatione della nuova missione…, sđd. Trang 151.

 – Phó Tuần phủ – phó cho quan đầu tỉnh. Linh mục Borri viết “Vice – Governatore”.

 – Đề Lãnh: Võ quan quản cai việc quân sự một tỉnh. Linh mục Borri viết “Luogotenete”. Trong các bản báo cáo hằng năm của các thừa sai, các vị viết “Ondelim” theo cảm âm giọng địa phương “Ông Đề Lĩnh“. (Linh mục Gaspar Luis viết tại Nước Mặn ngày 01.01.1626 – ARSI, JAP-SIN, 71, f. 67 r. )

[55] Xem QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam Nhất Thống ChíSđd, trang 57.

[56] Xem SỞ VĂN HÓA THÔNG TIN-BẢO TÀNG TỔNG HỢP BÌNH ĐỊNH, Hồ sơ di tích Cống quân công Trần Đức Hòa, 2004, trang 19.

[57] Sau khi đánh được Chiêm Thành (1471), Lê Thánh Tông chia vùng đất này thành 3 huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn, đặt phủ Hoài Nhân, thuộc thừa tuyên Quảng Nam. Năm 1602, phủ Hoài Nhân đổi tên là phủ Qui Nhân (Nhơn). Năm 1651 phủ Qui Nhơn được đổi thành phủ Qui Ninh. Năm 1742 lại được đổi thành phủ Qui Nhơn.

[58] Trong số các nguồn sử này, Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí là tác phẩm được soạn sớm nhất nhưng đã cách thời đại cụ Trần ngót nghét cả 100 năm.

[59] Thời điểm Đào Duy Từ vào Đàng Trong tìm minh chúa (1625), phải chăng các pho sử sau đều lấy nguồn từ “Nam Triều Công Nghiệp diễn chí” ? Theo Ngô Đức Thọ, dịch giả Nam Triều Công Nghiệp diễn chí,viết ở lời giới thiệu: “Sử quán triều Nguyễn đã sử dụng một truyền bản của sách ấy để làm tài liệu tham khảo trong khi biên soạn phần chép về thời kỳ các chúa Nguyễn như Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Chẳng hạn, trong lời Cẩn án về sử sự năm Quý Mão (1543), soạn giả Cương mục ghi rõ là: “Xét theo sách Công nghiệp diễn chí (CMục, CBXXVII, 40)”.

[60] Christoforo Borri, Relatione della nouva Missione delli PP. della Compagnia di Giesu al Regno della Cocincina, Roma 1631, trang 103-105.

[61] Xem Alexandre de Rhodes, Divers Voyages et Missions…, Paris 1653, trang 68.

[62] Xem Alexandre de Rhodes, Histore Du Royaume De Tunquin…, Lion 1651, trang 128.