Cứ Phá Hủy Đền Thờ Này Đi ! – Dưới Ánh Sáng Lời Chúa (Bài 149)

Bài 149  : Cứ phá hủy Đền thờ này đi !

Chúa nhật XXXII tới đây, phụng vụ cử hành lễ kỷ niệm Cung hiến Vương Cung Thánh Đường La-tê-ra-nô ở Rô-ma, được mệnh danh là “Mẹ và Đầu của mọi Thánh Đường trên thế giới”.

Các bài đọc Lời Chúa của ngày lễ đều nhắc đến Đền Thờ với những ý nghĩa khác nhau :

Bài đọc 1 kể lại thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en về một mạch nước chảy ra từ ngôi Đền Thờ tương lai, đem lại sự chữa lành, sự hồi sinh và sự sống dồi dào cho những nơi mạch nước ấy chảy qua (x. Ed 47,1-2.8-9.12).

Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô : “Anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao ? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1 Cr 3,16-17).

Trích đoạn Tin Mừng Gio-an kể lại việc Đức Giê-su xua đuổi những kẻ buôn bán làm ô uế Đền Thờ, và khi bị người Do-thái chất vấn về hành động này, Người đã trả lời họ rằng : “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi ; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19).

Trong bài học hỏi tuần này, chúng ta cùng tìm hiểu xem Đền Thờ trong Do-thái giáo và Ki-tô giáo được quan niệm như thế nào và ý nghĩa của Đền Thờ trong đời sống các tín hữu.

I. Đền Thờ theo quan niệm Do-thái Giáo

1. Nguồn gốc và lịch sử Đền thờ

Nguồn gốc Đền thờ trước hết xuất phát từ ý niệm về những nơi thánh thiêng, chẳng hạn Lều hội ngộ được di chuyển trong suốt hành trình hoang mạc của dân Ít-ra-en (x. Xh 25–40), tiếp đến là đền thờ sơ khai như ở Si-lô thời Sa-mu-en (1 Sm 3,1-9), và nhất là Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Vua Đa-vít đã chọn địa điểm xây đền thờ ở trên núi Mô-ri-a, mà truyền thống cho là nơi Áp-ra-ham sát tế I-xa-ác (x. St 22), và sau đó vua Sa-lô-môn đã xây ngôi Đền Thờ thứ nhất vào khoảng năm 957 tCN (x. 1 V 6–8) gồm ba phần : tiền đình, cung thánh, và cung cực thánh. Tại nơi cực thánh có đặt Hòm Bia giao ước mà chỉ  có tư tế mới được vào nơi này trong ngày Lễ Xá Tội (Yôm Kippur).

Đền thờ này được gọi là Đền thờ thứ nhất, là nơi duy nhất để dâng các lễ tế và để cử hành các nghi lễ vào ba dịp trọng đại : Lễ Vượt Qua, Lễ Ngũ Tuần, Lễ Lều. Đền thờ thứ nhất bị đế quốc Ba-by-lon tàn phá vào năm 587/586 tCN khi bắt đầu cuộc lưu đày Ba-by-lon (x. 2 V 25 ; Gr 52).

Năm 539 tCN, vua Ky-rô của đế quốc Ba Tư đánh bại đế quốc Ba-by-lon, rồi vua ban sắc chỉ cho phép dân Do-thái hồi hương vào năm 538 tCN. Những người hồi hương, dưới sự hướng dẫn của tổng đốc Giơ-rúp-ba-ven, đã xây lại Đền thờ vào năm 520 tCN và hoàn tất vào năm 515 tCN (x. Er 1–6). Đền thờ này được gọi là Đền thờ thứ hai, không còn lưu giữ Hòm Bia Giao Ước, vì đã thất lạc trong biến cố lưu đày.

Thời Hy-lạp thống trị, Đền Thờ bị tục hóa bởi vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê IV, vào năm 167 tCN, khi ông cho dựng ở đây các bàn thờ ngoại giáo. Cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Ma-ca-bê chống đế quốc Hy-lạp đã giành thắng lợi và họ đã cử hành lễ thanh tẩy Đền Thờ vào năm 164 tCN.

Đến năm 20 tCN, vua Hê-rô-đê Cả đã đại trùng tu Đền thờ bằng việc mở rộng khuôn viên, làm thêm các tiền đình : như tiền đình Dân ngoạitiền đình phụ nữtiền đình Tư tế, dựng bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, xây các bể nước thanh tẩy v.v.

Do bị áp bức nặng nề, người Do-thái đã nổi dậy chống đế quốc Rô-ma (66-70 CN) nhưng cuối cùng bị đế quốc Rô-ma trấn áp, chiếm Giê-ru-sa-lem và thiêu hủy Đền thờ vào năm 70 CN, đúng như Đức Giê-su đã tiên báo : “Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào ; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mt 24,2 ; x. Mc 13,2). Và từ đó đến nay chỉ còn sót lại bức Tường Phía Tây của Đền Thờ, gọi là Bức tường than khóc.

Sau khi Đền thờ vật chất không còn nữa, quan niệm về Đền thờ được biểu tượng hóa bằng các hội đường, được coi là những Tiểu Đền Thờ, là nơi để cầu nguyện và học hỏi sách luật Tô-ra. Ngày nay, những người Do-thái chính thống và bảo thủ vẫn cầu nguyện mỗi ngày ba lần cho Đền Thờ được tái thiết : “Xin thánh ý của Ngài (Đức Chúa) được thể hiện là cho Đền thờ được mau chóng xây dựng lại vào những ngày sống của chúng con hôm nay”. Đang khi đó, những người Do-thái cấp tiến lại cho rằng các hội đường là đủ để thay thế cho đền thờ rồi.

2. Thần học về Đền thờ theo Do-thái giáo

Chúng ta có thể nêu ra một số điểm thần học về Đền thờ như sau :

a. Đền thờ tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa : Đền thờ là nơi Thiên Chúa cư ngụ giữa dân Người, là nơi nối kết và hội tụ trời và đất, là thánh điện cao trọng nhất đối với dân Ít-ra-en. Đức Chúa đã phán với vua Sa-lô-môn : “Ta đã thánh hóa ngôi nhà này mà ngươi đã xây để cho Danh Ta ngự ở đó muôn đời ; Ta sẽ nhìn xem và ưa thích ở đấy mọi ngày (1 V 9,3).

b. Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa, dâng các hy lễ lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi, bày tỏ lòng biết ơn, được phúc lành và được đến gần Thiên Chúa. Sau khi Đền thờ bị phá hủy, các hội đường trở thành nơi cầu nguyện và học hỏi Lề Luật. Điều này cho thấy quan niệm mới về đền thờ : việc học hỏi Tô-ra, cầu nguyện và sống yêu thương thay thế cho việc các việc thờ phượng tại đền thờ, và sự hiện diện của Thiên Chúa bây giờ là ở nơi hội đường.

c. Đền thờ diễn tả sự hiệp nhất và căn tính của Ít-ra-en : Đền thờ là nơi quy tụ tất cả các chi tộc Ít-ra-en. Một năm ba lần, người Do-thái từ khắp nơi hành hương lên Giê-ru-sa-lem để cử hành các đại lễ : Vượt Qua, Ngũ Tuần, lễ Lều, để củng cố căn tính tôn giáo và quốc gia của họ (x. Cv 2,5-11).

d. Đền thờ là niềm hy vọng bất tận : việc Đền thờ thứ nhất và Đền thờ thứ hai đều bị phá hủy khiến cho dân rất đau buồn, và hàng năm vào ngày 9 tháng Av theo lịch Do-thái, là ngày tưởng niệm Đền Thờ bị phá hủy, là ngày đau buồn nhất, người Do-thái đọc sách Ai Ca và đến tường thành phía tây còn lại mà than khóc cùng khao khát được xây dựng Đền thờ thứ ba. Đây là niềm hy vọng khôn nguôi và bất tận của người Do-thái.

Tóm lại, ngay từ thời Xuất Hành, việc Thiên Chúa truyền cho Mô-sê dựng Lều Hội Ngộ (x. Xh 25–31) theo ý muốn của Người : “Ta sẽ ở giữa chúng và sẽ là Thiên Chúa của chúng” (Xh 29,45). Lều Hội Ngộ là hình ảnh đầu tiên của Đền Thờ : nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân đang hành trình trong hoang địa.

Khi dân định cư tại đất Ca-na-an, vua Sa-lô-môn xây dựng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước, tượng trưng cho sự hiện diện vinh quang của Đức Chúa. Trong lễ cung hiến Đền Thờ, sách Các Vua viết : “Vinh quang của Đức Chúa tràn ngập Nhà Đức Chúa” (1 V 8,11).

Tuy nhiên, các ngôn sứ không ngừng cảnh báo dân rằng Đền Thờ không phải là “bùa hộ mệnh” (x. Gr 7,4-11). Thiên Chúa không bị giới hạn trong công trình nhân loại, nhưng chỉ hiện diện nơi những tâm hồn những ai trung tín và công chính. Ngôn sứ I-sai-a khẳng định : “Trời là ngai Ta, đất là bệ dưới chân Ta… Nhà nào các ngươi có thể xây cho Ta ?” (Is 66,1).

Việc Đền Thờ thứ nhất bị phá hủy năm 587 tCN, rồi đến Đền thờ thứ hai vào năm 70 CN không chỉ là những biến cố lịch sử, mà còn mang ý nghĩa thần học : Thiên Chúa không lệ thuộc vào nơi chốn, và dân phải tìm lại tương quan giao ước nội tâm với Thiên Chúa. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã thấy “vinh quang Đức Chúa rời khỏi Đền Thờ” (x. Ed 10,18-19), nhưng cũng loan báo ngày vinh quang ấy trở lại (x. Ed 43,1-7).

Từ đó, Đền Thờ trở thành biểu tượng niềm hy vọng : tin rằng Thiên Chúa sẽ tái lập sự hiện diện giữa dân Người, và điều này sẽ được hoàn tất trong Đức Giê-su Ki-tô.

II. Đền Thờ theo quan niệm Ki-tô giáo

Việc Đền Thờ thứ nhất và Đền thờ thứ hai bị phá hủy thì không chỉ kết thúc một giai đoạn tế lễ tập trung theo Do-thái giáo, mà còn tạo ra điều kiện thực tế để quan niệm về “đền thờ” được thay đổi tận căn : từ công trình vật chất và chế độ tư tế tập trung sang những hình thức hiện diện thiêng liêng và cộng đồng. Việc thay đổi quan niệm về Đền Thờ không chỉ là kết quả của biến cố lịch sử, mà sâu xa hơn là sự đổi mới trong cách con người hiểu về Thiên Chúa và mối tương quan với Người : từ một Thiên Chúa ở xa đến Thiên Chúa ở cùng và ở trong con người.

Vì vậy, chúng ta có thể đưa ra một số điểm thần học quan trọng về Đền thờ theo Ki-tô giáo như sau :

1. Đức Giêsu – hiện thân của Đền Thờ

Tân Ước cho thấy một chuyển đổi căn bản : Thiên Chúa không còn hiện diện trong công trình do tay người phàm, mà trong chính Con của Người.

Khi Đức Giê-su thanh tẩy Đền Thờ, Người tuyên bố : “Cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Và thánh Gio-an giải thích : “Đền Thờ mà Người muốn nói chính là thân thể Người” (Ga 2,21). Ở đây, Đức Giê-su tự mặc khải Người là Đền Thờ đích thực, nơi Thiên Chúa và nhân loại gặp gỡ nhau cách viên mãn.

Trong thân xác Đức Ki-tô, Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Động từ “cư ngụ” (σκηνόω) mang nghĩa là “dựng lều”, gợi lại Lều Hội Ngộ trong cuộc Xuất Hành. Như vậy, chính Đức Ki-tô là Lều Hội Ngộ mới, là nơi Thiên Chúa “ở giữa dân Người” cách trọn vẹn.

2. Đức Ki-tô hiến tế và phục sinh – Đền Thờ mới được hoàn tất

Trên thập giá, khi Đức Ki-tô chịu chết, “bức màn trong Đền Thờ xé làm đôi từ trên xuống dưới” (Mt 27,51), biểu tượng cho sự mở ra của giao ước mới, trong đó con người có thể trực tiếp đến với Thiên Chúa qua Đức Ki-tô.

Sự phục sinh là hành động tái thiết Đền Thờ” như Đức Giê-su đã nói. Thân thể phục sinh của Người là nơi cư ngụ vĩnh cửu của vinh quang Thiên Chúa. Do đó, từ nay việc thờ phượng Thiên Chúa không còn gắn với nơi chốn cụ thể (Gơ-ri-dim hoặc Giê-ru-sa-lem) nữa, mà với con người Đức Ki-tô, Đấng mặc khải Chúa Cha “trong thần khí và sự thật” (x. Ga 4,23-24).

3. Hội Thánh là Đền Thờ

3.1. Cộng đoàn là Đền Thờ sống động

Sau biến cố Hiện Xuống, Thánh Thần được ban cho Hội Thánh, làm cho cộng đoàn tín hữu trở thành Đền Thờ thiêng liêng của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói : “Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em” (1 Cr 3,16). Như vậy, thân xác mỗi Ki-tô hữu là Đền Thờ của Thánh Thần. Do đó, việc thờ phượng Thiên Chúa được thể hiện không chỉ trong phụng vụ, mà trong toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, nơi thân xác và linh hồn đều trở thành nơi Thiên Chúa hiện diện (x. 1 Cr 6,19).

3.2. Hội Thánh là Đền Thờ thiêng liêng đang được xây dựng

Thư Ê-phê-xô mở rộng ý niệm này khi nói : “Anh em được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ và ngôn sứ, còn chính Đức Ki-tô Giê-su là đá tảng góc tường… Trong Người, anh em cũng được xây dựng cùng nhau thành nơi Thiên Chúa ngự nhờ Thánh Thần” (Ep 2,20-22). Như thế, Hội Thánh không phải là tòa nhà vật chất, mà là cộng đoàn hiệp thông, được kết hợp bởi tình yêu và Thánh Thần. Hội Thánh là Đền Thờ mà trong đó mỗi tín hữu là viên đá sống động.

4. Đền Thờ trong viễn tượng cánh chung

Sách Khải Huyền khép lại mặc khải Kinh Thánh bằng hình ảnh Giê-ru-sa-lem mới, nơi “Thiên Chúa ở cùng họ” (Kh 21,3). Tác giả viết : “Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng và Con Chiên là Đền Thờ của thành” (Kh 21,22). Đây là đỉnh cao của thần học về Đền Thờ : Thiên Chúa và con người hiệp thông trọn vẹn, không còn trung gian hay khoảng cách. Toàn thể tạo thành trở nên Đền Thờ, nơi vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng muôn đời (Kh 21,23).

Như vậy, lịch sử cứu độ là hành trình của Thiên Chúa tìm nơi cư ngụ giữa dân Người, khởi đầu từ Lều Hội Ngộ, đạt đỉnh nơi Đức Ki-tô, tiếp diễn trong Hội Thánh, và viên mãn trong thời cánh chung.

Tóm lại, Thần học về Đền Thờ trong Ki-tô giáo cho thấy một tiến trình nhất quán và đầy sức sống : Từ Đền Thờ bằng đá đến Đền Thờ là Đức Kitô, từ sự hiện diện đặc thù đến sự hiện diện phổ quát trong Thánh Thần, từ kiến trúc tôn giáo đến mầu nhiệm hiệp thông, từ lịch sử đến thời cánh chung.

Như vậy, Đền Thờ không còn là nơi cố định, mà là thực tại thiêng liêng nơi Thiên Chúa và nhân loại gặp gỡ trong Đức Ki-tô và Hội Thánh. Mỗi tín hữu được mời gọi trở nên Đền Thờ sống động, nơi Thiên Chúa được tôn vinh qua đời sống thánh thiện, yêu thương và hiệp nhất.

Cầu nguyện qua lời nhắn nhủ của thánh Phê-rô

“Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (1 Pr 2,5).

Lm Vinh Sơn Phạm Xuân Hưng, OP

Nguồn: tgpsaigon.net