Chúa Nhật II Mùa Vọng, Năm A (07.12.2025) – Giục Lòng Sám Hối (Mt 3,1-12)

“Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh bằng nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Mt 3,11)

Bài đọc 1: Is 11,1-10

Chúa xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng.

Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.

1Ngày ấy, từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,
từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.
2Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này :
thần khí khôn ngoan và minh mẫn,
thần khí mưu lược và dũng mãnh,
thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.
3Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú,
Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài,
cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói,
4nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng,
và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở.
Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở,
hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.
5Đai thắt ngang lưng là đức công chính,
giải buộc bên sườn là đức tín thành.
6Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.
Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,
một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.
7Bò cái kết thân cùng gấu cái,
con của chúng nằm chung một chỗ,
sư tử cũng ăn rơm như bò.
8Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,
trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang.
9Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta,
vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này,
cũng như nước lấp đầy lòng biển.
10Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân.
Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người,
và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang.

Đáp ca: Tv 71,1-2.7-8.12-13.17 (Đ. x. c.7)

Đ.Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị đến muôn đời.

1Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,2để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.

Đ.Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị đến muôn đời.

7Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị
tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.8Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.

Đ.Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị đến muôn đời.

12Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,13chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ.

Đ.Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị đến muôn đời.

17Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.

Đ.Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị đến muôn đời.

Bài đọc 2: Rm 15,4-9

Đức Ki-tô cứu độ hết mọi người.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.

4 Thưa anh em, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.

5 Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi. 6 Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

7 Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. 8 Thật vậy, tôi xin quả quyết : Đức Ki-tô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. 9 Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép : Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.

Tung hô Tin Mừng: Lc 3,4.6

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng: Mt 3,1-12

Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

1 Khi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng : 2 “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” 3 Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới : Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.

4 Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. 5 Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. 6 Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. 7 Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng : “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ? 8 Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. 9 Đừng tưởng có thể bảo mình rằng : ‘Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.’ Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. 10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây : bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. 11 Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh bằng nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh bằng Thánh Thần và bằng lửa. 12 Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”

(Nguồn: ktcgkpv.org)

—————————

Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên

 

 

Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a hướng chúng ta tới một thế giới lý tưởng: Sói ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái. Sư tử cũng ăn rơm như bò. Vị ngôn sứ muốn dùng hình ảnh của các loài vật để diễn tả thế giới huynh đệ, nơi mà người với người sống hài hòa không còn tranh chấp và ghen ghét.

Thực ra, thế giới với những hình ảnh ngôn sứ I-sai-a diễn tả đã hiện hữu ở khởi đầu lịch sử, khi Thiên Chúa sáng tạo con người cũng như muôn loài muôn vật. Thời đó, mỗi buổi chiều, Thiên Chúa đi dạo và tâm sự với con người trong làn gió hiu hiu thổi, và con người được Thiên Chúa ưu ái cho hưởng tất cả mọi hoa trái trong vườn Địa đàng, trừ cây ở giữa vườn. Tuy vậy, cảnh thiên nhiên huy hoàng và sự gắn bó thân thiện giữa Thiên Chúa và con người không còn nữa, kể từ khi con người bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa. Từ đó, con người bị đuổi ra khỏi vườn Địa đàng. Tuy đã xua đuổi con người, Thiên Chúa vẫn cảm thương muốn che sự trần truồng xấu hổ của họ và Ngài lấy da thú kết khố cho họ che thân (x. St 3,1-24). Sau tội Nguyên tổ, đất đai sinh gai góc và các loài tạo vật cũng chẳng còn thuận hòa với nhau.

Lời ngôn sứ I-sai-a từ 700 năm trước đã thành hiện thực qua mầu nhiệm Nhập Thể. Đức Giê-su, Đấng Thiên Sai đã đến trần gian. Người là Hoàng Tử Hòa Bình, đến trần gian để thiết lập hòa bình giữa con người với Thiên Chúa và muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Từ thời lưu đày, ngôn sứ E-dê-ki-en đã loan báo: “Ta sẽ lập với chúng một giao ước bình an; đó sẽ là giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ định cư chúng, cho chúng sinh sôi này nở ra nhiều và đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời” (Ed 37,26).

Trọn vẹn đời sống và sứ mạng của Chúa Giê-su, nhất là cuộc tử nạn của Người trên thập giá, đều nhằm mục đích giao hòa con người với Thiên Chúa và giao hòa con người với nhau. Sau này, Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Không còn chuyện phân biệt giữa Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do…” (Gl 3,28). Ông cũng viết trong một thư khác: “Chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại thành một. Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2, 14).

Tại sao vị Hoàng Tử Hòa Bình đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm, mà thế giới vẫn còn chiến tranh? Thế giới của chúng ta hôm nay đang đặt ra câu hỏi này. Thực ra, chiến tranh vẫn tồn tại không phải vì Đức Giê-su thất bại trong sứ mạng, mà vì nhân loại chưa hoàn toàn sống theo đường lối của Người. Chiến tranh vẫn xảy ra vì loài người còn bị chi phối bởi tham vọng, ích kỷ và tội lỗi. Hòa bình mà Người mang đến trước hết là hòa bình trong tâm hồn và mối tương quan với Thiên Chúa, và nền hòa bình tuyệt đối trên thế giới sẽ chỉ đến khi Thiên Chúa hoàn tất kế hoạch của Ngài.

Nếu vương quốc hòa bình hay thời thiên sai chưa thực sự hiện hữu tỏ tường trên thế gian, thì những người thành tâm thiện chí, nhất là những tín hữu, lại được mời gọi để cộng tác phần mình làm cho hòa bình mau đến. Khi chung tay bảo vệ môi sinh, đẩy lùi sự dối trá và bạo lực, là chúng ta từng bước thiết lập hòa bình. Thánh Gio-an tẩy giả xuất hiện trong Phụng vụ Mùa Vọng như một lời kêu gọi trở về với nội tâm và sám hối. Sám hối là khiêm tốn nhận mình còn nhiều khiếm khuyết bất toàn. Sự sám hối chỉ có ý nghĩa, khi chúng ta thực sự thay đổi cách sống, nhân ái và thân thiện hơn với những người xung quanh, đồng thời quyết tâm sửa đổi những sai phạm trong quá khứ của mình. Ông Gio-an tẩy giả được trình bày với hình ảnh một nhà giảng thuyết khiêm tốn, khổ hạnh. Ông nhận mình chỉ đáng xách dép cho Đấng Thiên sai, khi Người đến. Chính sự khó nghèo và khiêm tốn của ông đã có sức chinh phục hàng ngàn người đến để tỏ bày tâm tình sám hối và quyết tâm đổi đời.

Đấng mà Thánh Gio-an tẩy giả giới thiệu đã đến trần gian, và Người đang ở giữa chúng ta! Thánh Phao-lô khẳng định: Đức Ki-tô đến trần gian để cứu độ hết mọi người, Do Thái cũng như dân ngoại. Nếu ơn Cứu độ của Thiên Chúa mênh mông rộng lớn, thì tâm hồn của những ai tin vào Người cũng phải quảng đại bao dung. Hãy đón nhận nhau, vì mọi người đều là anh chị em với nhau trong Đức Ki-tô.

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã viết trong Thông điệp “Ngài đã yêu thương chúng ta – Dilexit Nos”“Chỉ bằng cách bắt đầu từ trái tim, các cộng đồng của chúng ta mới thành công trong việc hợp nhất và hòa giải những tâm thức và ý chí khác biệt, để Chúa Thánh Thần có thể dẫn dắt chúng ta trong sự hiệp nhất như anh chị em. Sự hòa giải và hòa bình cũng phát sinh từ trái tim. Trái tim của Chúa Ki-tô là “sự xuất thần”, sự cởi mở, sự ban tặng và gặp gỡ. Trong trái tim đó, chúng ta học biết liên hệ với nhau theo những cách lành mạnh và hạnh phúc, và xây dựng vương quốc tình yêu và công lý của Thiên Chúa trên thế giới này. Trái tim chúng ta, kết hợp với trái tim Chúa Ki-tô, sẽ có khả năng làm nên kỳ tích cho xã hội này” (số 28).

Thế giới huynh đệ là kế hoạch của Thiên Chúa. Thế giới huynh đệ cũng là ước vọng của con người ở mọi thời đại. Tuy vậy, để thế giới này thực sự hiện hữu trên trần gian, Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Người, khởi đi từ những hành động đơn giản cụ thể trong đời sống hằng ngày.

+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

(Nguồn: tonggiaophanhanoi.org)

—————————

 

Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh

 

SA  MẠC LÀ THẦY DẠY

 

Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng nói đến sự quan trọng của thời điểm Thiên Chúa mặc khải ơn cứu độ, ngày giờ Chúa đến đột xuất với từng người như kẻ trộm và sự hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc.  Chúa nhật hôm nay nói đến ý nghĩa quan trọng của nơi chốn Thiên Chúa mặc khải ơn cứu độ, đó là hoang địa, là rừng vắng.  Nơi đây không còn xôn xao sự đời, nơi loại bỏ bon chen tư lợi, nơi con người đối diện với trời cao và đất rộng, nơi con người yếu đuối đối diện với cám dỗ vật chất và tinh thần, và sa mạc cũng là nơi con người khám phá ra sức mạnh giúp con người vượt thắng thế gian, ma quỷ và xác thịt.

Hoang địa hay sa mạc nói về vùng đất khô cháy, cát nóng và gió lồng lộng, đầy ắp thinh lặng, vượt qua ý niệm vật lý, sa mạc mang ý nghĩa thiêng liêng, sa mạc Nê-ghép, nơi xưa kia A-pra-ham và các tổ phụ đã gặp gỡ Thiên Chúa, và lần đầu tiên các ngài đã nghe tiếng nói của Thiên Chúa và Lời hứa của Người trong sa mạc.  Sa mạc của núi Si-on, nơi Mô-sê lãnh nhận bia đá khắc Mười Giới Răn của Thiên Chúa và ký kết giao ước với Người.  Thiên Chúa luôn nói và hoạt động trong tĩnh mịch.

Vào thời Tân ước, ông Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng ơn Sám hối trong hoang địa vùng Giu-đê, ông nghiêm khắc kêu gọi dân chúng hoán cải: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”  (Bài Tin Mừng Mt 3, 1-12).  Nước Trời hay Nước Thiên Chúa được hiểu về Thiên Chúa, là chính Chúa Giê-su.  Sa mạc mang tính tiên tri, như điểm hẹn của Thiên Chúa đến gặp gỡ Dân của Người, nơi thinh lặng thuận tiện  cho Thiên Chúa và con người tâm sự.  Dân Thiên Chúa đã trải qua bốn mươi năm trong hoang địa để có đủ thời gian lắng đọng chiêm niệm hiểu về mình và hiểu về Thiên Chúa, thời gian thuận lợi gặp gỡ, lắng nghe Thiên Chúa và được Thiên Chúa giáo huấn thanh luyện và sửa dạy.  Thiên Chúa không nói trong tiếng thanh la não bạt.

Chính Đức Giê-su khi đến trần gian cũng gặp gỡ vị Tiền hô của mình trong sa mạc.  Cuộc gặp gỡ nầy đánh dấu giai đoạn sang trang trong lịch sử ơn cứu độ, một giai đoạn quyết định bước từ Cựu ước sang Tân ước.  Chính trong hoang địa, Đức Giê-su được Thánh Thần hướng dẫn đi vào sa mạc để ăn chay cầu nguyện trong bốn mươi đêm ngày, một thời gian tròn đầy để suy tư về kế hoạch dấn thân cứu chuộc nhân loại.  Cũng trong sa mạc Đức Giê-su bị Xa-tan cám dỗ, và Người đã chiến thắng Xa-tan nhờ dựa vào Lời Sách Thánh. 

Như thế cho chúng ta hiểu rằng hoang địa là nơi linh liêng: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c. 3).  Hoang địa là nơi biểu tượng cho sám hối, hồi tâm và gặp gỡ, đi đến quyết định lựa chọn căn bản trước khi dấn thân làm việc gì quan trọng.  Dù là nơi nghèo nàn và hoang vắng nhưng nơi đây xảy ra những cuộc chạm trán với thần dữ; và cũng là nơi tu thân tích đức, nơi mời gọi vứt bỏ tất cả sự phồn vinh giả tạo, sự an toàn giả hiệu như viện cớ mình là con cháu của tổ phụ A-pra-ham (c.9), cậy mình có đức tin lâu năm, rửa tội lâu đời.

Hoang địa mang ý nghĩa thần học, theo truyền thống tu đức, “sa mạc” là nơi lý tưởng để gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 12,16-22; Gr 2,2-3; Ed 16,23; Đnl 8,2). Trong sa mạc, Đức Chúa đã nói với Mô-sê (Xh 3),với Ít-ra-en (Xh 19), với ngôn sứ Ê-li-a (1 V 19).  Sa mạc nơi dành cho gió thổi tự do nhưng cũng là nơi dành cho hơi thở của Thánh thần, làm con người trở nên nghèo hèn, dứt bỏ tất cả để chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, Đấng có thể thực hiện ơn cứu độ của Người một cách kỳ diệu.

Tiên tri I-sa-i-a mô tả điều kỳ diệu của thế giới mới, thời Thiên Chúa Cứu Độ: Chó sói sẽ ở chung với chiên con …   Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau …  bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục … thọc tay vào ổ rắn hổ mang” (Bài đọc 1. Is 11,1-10).  Đây là cách mô tả thi vị đầy màu sắc về thời kỳ Chúa Cứu Thế mang bình an đến cho nhân loại.  Người là Hoàng tử bình an.

Sa mạc còn nhắc cho con người thân phận lữ hành (homo viator), như Năm Thánh 2025 nhắc nhớ chúng ta là “Khách hành hương của Hy Vọng”, luôn di chuyển liên tục để tìm nguồn nước trong lành, nghĩa là tìm sự sống nơi Thiên Chúa.  Trong sa mạc con người luôn lên đường, bỏ lại đàng sau tất cả, luôn đi tìm sự mới lạ nơi niềm Hy Vọng duy nhất là Chúa Giê-su, do đó họ không mang trên vai nhiều hành lý cồng kềnh cản trở việc gặp gỡ Thiên Chúa, càng nhẹ nhàng con người càng tự do và sống phó thác cho Chúa. 

Sa mạc là nơi chốn thuận tiện cho tâm hồn chuẩn bị gặp gỡ Chúa Cứu Thế.  Thế giới đang sống quá ồn ào do đủ thứ âm thanh, đủ thứ dục vọng, đủ thứ chen lấn vật chất, đủ thứ lo lắng, đủ thứ đam mê tội lỗi, đủ thứ âm mưu và lừa đảo, khiến con người không thể lắng nghe Lời Chúa phát ra trong âm thầm vắng lặng, trong tâm tư khi đêm về.  Chúng ta được mời gọi đi vào thinh lặng của tâm hồn, rủ bỏ mọi tính hư nết xấu, đón nhận lời Kinh Thánh như khí giới để sẵn sàng chiến đấu với Xa-tan, theo gương Chúa Giê-su trong hoang địa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết thinh lặng lắng nghe Lời Chúa, xin cho con can đảm quét sạch tội lỗi, đứng dậy khỏi yếu đuối, uốn ngay thẳng tâm hồn để đón mừng Chúa Cứu Thế. Amen

Lm Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh, Giáo xứ Đức An, Pleiku

_______________________

Suy niệm 3: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ

(Lm Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ – Giáo xứ Hoa Lư, Pleiku)

WGPKT(06/12/2025) KONTUM