Chúa Nhật II Thường Niên, Năm C (CN 19.01.2025) – Làm Theo Ý Chúa (Ga 2,1-11)

Bài đọc 1: Is 62,1-5

Cô dâu là niềm vui cho chú rể.

Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.

1Vì lòng mến Xi-on, tôi sẽ không nín lặng,
vì lòng mến Giê-ru-sa-lem, tôi nghỉ yên sao đành,
tới ngày Đấng Công Chính
xuất hiện tựa hừng đông,
Vị Cứu Tinh của thành
rực lên như ngọn đuốc.
2Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng
đức công chính của ngươi,
mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn
vinh quang ngươi tỏ rạng.
Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới,
chính là tên miệng Chúa đặt cho.
3Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng
trong lòng bàn tay Chúa,
sẽ là mũ triều thiên vương giả
Chúa ngươi cầm ở tay.
4Chẳng ai còn réo tên ngươi : “Đồ bị ruồng bỏ !”
Xứ sở ngươi hết bị tiếng là “Phận bạc duyên đơn.”
Nhưng ngươi được gọi : “Ái khanh lòng Ta hỡi !”
Xứ sở ngươi nức tiếng là “Duyên thắm chỉ hồng.”
Vì ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái,
và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi.
5Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ,
Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về.
Như cô dâu là niềm vui cho chú rể,
ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.

Đáp ca: Tv 95,1-2a.2b-3.7-8a.9-10ac (Đ. x. c.3)

Đ.Hãy kể cho muôn dân được biết
những kỳ công Chúa làm.

1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu !2aHát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh !

Đ.Hãy kể cho muôn dân được biết
những kỳ công Chúa làm.

2bNgày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ,3kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển,
cho mọi nước hay những kỳ công của Người.

Đ.Hãy kể cho muôn dân được biết
những kỳ công Chúa làm.

7Hãy dâng Chúa, hỡi các dân các nước,
dâng Chúa quyền lực và vinh quang,8ahãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người.

Đ.Hãy kể cho muôn dân được biết
những kỳ công Chúa làm.

9Hãy thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện,
toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan.10acHãy nói với chư dân : Chúa là Vua hiển trị,
Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng.

Đ.Hãy kể cho muôn dân được biết
những kỳ công Chúa làm.

Bài đọc 2: 1 Cr 12,4-11

Chính Thần Khí duy nhất phân chia cho mỗi người tuỳ theo ý của Người.

Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.

4 Thưa anh em, có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. 5 Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. 6 Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. 7 Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. 8 Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. 9 Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin ; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. 10 Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri ; kẻ thì được ơn phân định thần khí ; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. 11 Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người.

Tung hô Tin Mừng: x. 2 Tx 2,14

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được hưởng vinh quang của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng: Ga 2,1-11

Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

1 Khi ấy, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. 2 Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. 3 Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người : “Họ hết rượu rồi.” 4 Đức Giê-su đáp : “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi ? Giờ của tôi chưa đến.” 5 Thân mẫu Người nói với gia nhân : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”

6 Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. 7 Đức Giê-su bảo họ : “Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” Và họ đổ đầy tới miệng. 8 Rồi Người nói với họ : “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. 9 Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại 10 và nói : “Ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.” 11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

(Nguồn: ktcgkpv.org)

—————————-

Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Sau lễ Hiển Linh và lễ Chúa Giê-su chịu phép Rửa, hôm nay, Phụng vụ lại giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” thứ ba: đó là phép lạ tại tiệc cưới Ca-na. Quả vậy, khi thực hiện phép lạ này, Chúa Giê-su diễn tả quyền năng thiên linh của Người, và vinh quang Thiên Chúa cũng được thể hiện qua biến cố đó. Qua phép lạ làm cho nước biến thành rượu, Đức Giê-su khẳng định: Người đến trần gian để thiết lập một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của ân sủng và bình an. Cũng như nước với rượu hoàn toàn khác nhau, kỷ nguyên Người thiết lập khác xa với thời của Cựu ước.

Sự kết hợp gắn bó giữa Thiên Chúa và con người được so sánh với một hôn lễ. Cách diễn tả này đã có trong thời Cựu ước. Thiên Chúa yêu thương con người, không phải là tình yêu của ông chủ đối với đầy tớ; cũng không như một người thợ đối với tác phẩm mình làm ra. Thiên Chúa yêu thương con người đến “phát ghen”. Ngài mong muốn cho con người được hạnh phúc. Ai phản bội Ngài, cũng giống như người vợ hay người chồng phản bội bạn đời của mình vậy. Chúng ta có thể đọc thấy điều này trong ngôn sứ I-sa-i-a và nhất là ngôn sứ Hô-sê.

“Vì ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi”. Bảy thế kỷ trước Chúa Giê-su, ngôn sứ I-sa-i-a đã say sưa chiêm ngắm cảnh huy hoàng của Giê-ru-sa-lem trong tương lai, khi Đấng Cứu tinh xuất hiện. Đó cũng là lúc Ít-ra-en được phục hồi, không còn cảnh hoang tàn như xưa nữa. Những hình ảnh được dùng để minh họa giúp chúng ta mường tượng một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc chan hòa. Giê-ru-sa-lem và dân tộc Ít-ra-en sẽ là niềm vui cho Thiên Chúa.

Niềm vui và vinh quang ấy đã thành hiện thực trong tiệc cưới Ca-na. Thánh Gio-an là tác giả duy nhất thuật lại sự kiện này. Trong tác phẩm của mình, vị tác giả này rất “tiết kiệm” khi kể lại các phép lạ. Ông chỉ tường thuật bảy phép lạ của Chúa Giê-su mà ông gọi là “dấu lạ”. Mỗi dấu lạ đều diễn tả một khía cạnh trong sứ vụ của Chúa Giê-su và đều kèm theo một thông điệp quan trọng. Tác giả Phúc âm thứ bốn đã làm độc giả ngỡ ngàng khi tả lại việc Đức Giê-su và các môn đệ đi dự tiệc cưới. Qua sự kiện này, thánh Gio-an muốn khẳng định: Đức Giê-su là Thiên Chúa mang thân phận con người. Người là một Con Người như mọi người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. Người tôn trọng tất cả những gì là tốt đẹp và hợp pháp trong cuộc sống đời thường. Sự hiện diện của Người có sức thánh hóa mọi mối quan hệ, tình cảm và những niềm vui. Không có điều gì thuộc cuộc sống con người mà lại xa lạ đối với Người.

Nếu thánh Gio-an diễn tả một tiệc cưới, thì chúng ta lại thấy vai trò của cô dâu chú rể rất mờ nhạt, trong khi thông thường, hai nhân vật này là trung tâm của bữa tiệc và của mọi lời chúc tụng. Chính Chúa Giê-su là nhân vật chính trong trình thuật này. Phải chăng tác giả muốn ngầm giới thiệu với chúng ta: Đức Giê-su là Chú Rể. Người đến để dẫn đưa nhân loại sang một kỷ nguyên mới. Người thiết lập mối thân tình giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nơi chính bản thân Người, là sự kết hợp kỳ diệu giữa nhân tính và thiên tính. Chính vì vậy, kết quả của dấu lạ Ca-na, theo thánh Gio-an, là: Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người. Đây là mục đích chính của dấu lạ và đây cũng là chủ ý của tác giả, khi thuật lại sự kiện này.

Nếu Đức Giê-su đã làm phép lạ năm xưa để tỏ bày vinh quang của Người, thì hôm nay, vinh quang Thiên Chúa vẫn tỏ hiện nơi cuộc đời chúng ta. Thánh Phao-lô đã khẳng định như thế trong Bài đọc II: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Thánh nhân đã liệt kê những đặc sủng (tức là ân sủng đặc biệt, thể hiện qua những khả năng phi thường): ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định… Thiên Chúa vẫn tỏ hiện quyền năng và vinh quang của Ngài nơi chúng ta. Với thiện chí nỗi lực, chúng ta đang cộng tác với Ngài để làm cho hiệu quả của những ơn chúng ta đã lãnh nhận lan tỏa mọi nơi trong cuộc đời trần thế.

Sự kiện Ca-na có sự can thiệp của Đức Trinh nữ Ma-ri-a. Hôm nay, Đức Mẹ vẫn đang nói với chúng ta: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Quả vậy, lắng nghe và thực hiện ý Chúa, sẽ đem lại cho chúng ta bình an hạnh phúc. Hơn thế nữa, việc thực hiện ý Chúa sẽ đem lại những điều lạ lùng trong cuộc đời.

+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

—————————-

Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh

RƯỢU CANA LÀM VUI LÒNG NGƯỜI

Này là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người lời giới thiệu long trọng của Chúa Cha về Chúa Giêsu tại bến sông Giođan.  Sau đó Đức Giêsu dấn thân vào hoang địa chiến đấu chống Xatan.  Đức Giêsu đã đi vào sa mạc ăn chay và cầu nguyện, đây là việc thường làm của Đức Giêsu trước khi bắt tay làm một việc gì quan trọng như tuyển chọn các môn đệ và công khai rao giảng Tin Mừng Nước Trời.

Được Chúa Cha giới thiệu, tuy nhiên Đức Giêsu cần tự khẳng định thân thế, uy quyền và bản lãnh thần linh của mình, nghĩa là Người cần thể hiện mình qua các phép lạ để cho dân thấy mà tin.  Phép lạ đầu tiên Chúa làm là cho sáu chum nước trở thành sáu chum rượu ngon trong tiệc cưới Cana xứ Galilê.  Sự kiện gây ngạc nhiên vì dân làng Cana ai nấy đều biết Đức Giêsu là con bà Maria và bác phó mộc Giuse là cha theo pháp lý, đó là lý lịch trích ngang có phần tầm thường của Chúa Giêsu, cái lý lịch nầy đã làm cho nhiều người nghi ngại và không muốn chấp nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Nhưng còn có một lý lịch khác mà ít ai biết đến: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.   Như vậy Người có hai căn cước, căn cước trần thế và căn cước thiên quốc, Đức Giê-su duy nhất có hai bản tính nhân loại và bản tính thần thiêng, một căn cước có thể truy tìm theo sơ yếu lý lịch xã hội và một căn cước khác phải dùng đến đức tin mới nắm bắt được.  Cho nên Đức Giêsu phải minh chứng khả năng ngoại thường thần thiêng của mình để thiên hạ nhìn thấy điều lạ trước mắt mà tin điều siêu nhiên.

Trong dịp dự tiệc cưới tại Cana, Đức Giêsu cùng đi với mẹ và các tông đồ, giữa tiệc sự cố bất ngờ xảy ra, đám cưới hết rượu, qua sự quan sát tinh tường của Đức Maria, Mẹ đã can thiệp đúng lúc và Đức Giêsu đã kịp thời làm phép lạ cho sáu chum nước lã biến thành sáu chum rượu ngon, tính ra 6 chum x 80 lít/ chum= 480 lít hoặc 6 chum x 120 lít =720 lít.  Thánh Gioan ghi rõ: “Đức Giê su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người.  các môn đệ đã tin vào Người” (x. Bài Tin Mừng Ga 2, 1-11).

Tuy nhiên một ghi nhận đáng chú ý là bài Tin Mừng không nói đến cô dâu mà chỉ nói đến buổi tiệc cưới, chú rể, rượu, nước, người giúp việc, khách dự tiệc, Mẹ Đức Giêsu, Đức Giêsu và các môn đệ của Người.  Mà cứ sự thường dân tộc nào cũng coi cô dâu mới là điểm then chốt và là điểm chú ý của bữa tiệc cưới, liệu không có cô dâu trong tiệc cưới, tiệc cưới có có trọn vẹn ý nghĩa không?  Thế có nghĩa là gì? Thánh Gioan có ý muốn nói gì qua tiệc cưới Cana này?

Phải cẩn thận, chúng ta đang đọc Tin Mừng theo thánh Gioan, Tin Mừng thứ tư được mệnh danh là Tin Mừng của ‘các dấu chỉ’, nghĩa là tác giả trình bày một sự kiện trước mắt để ám chỉ một thực tại khác cao xa hơn, bí ẩn hơn.  Tiệc cưới biểu tượng cho niềm vui vỡ bờ trong dân gian, trai tài gái sắc có dịp được dịp khoe mình với y phục thời trang và trang sức lộng lẫy.  Cho nên tiệc cưới Cana rất có thể là một dụ ngôn hay ẩn dụ để diễn tả niềm vui tràn ngập của nhân loại.

Tiệc cưới Cana là một điển hình.  Những dấu chỉ được nói đến trong bài Tin Mừng này:  Niềm vui của tiệc cưới được Kinh thánh nói đến nhiều lần, một chủ đề lớn được các ngôn sứ thường hay nói đến, nhất là ngôn sứ Isaia: Ngày đó trên núi nầy ta sẽ dọn tiệc lớn, thịt thì béo và rượu thì ngon muôn dân tộc được mời tham dự.

Tiệc cưới Cana mang tính biểu tượng về tiệc cưới giữa Thiên Chúa và nhân loại, cô dâu chính là ‘nhân loại tính’, một sự kết hợp ngàn thu giữa thiên tính và nhân tính, đây là niềm vui cho hai họ, cho Thiên Chúa và nhất là cho nhân loại. Chúng ta nhớ lại lời ngôn sứ Isaia, “Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về.  Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Bài Đọc 1. Is 62,1-5). Sự kết hợp được thực hiện nơi bản thân Đức Giêsu.  Thiên Chúa làm người để con người được làm Thiên Chúa.

Niềm vui trào tràn được Thiên Chúa chúc phúc lành qua dấu chỉ rượu ngon được ban cho thực khách cách hào phóng, điều nầy nói lên Thiên Chúa coi trọng hôn nhân và chúc lành cho họ.  Sự kết hợp giữa thiên tính và nhân tính sẽ không bao giờ phân ly, Đức Giêsu Kitô dù có về trời thì Người vẫn là Thiên Chúa nhập thể.

Đức Giêsu làm cho nước hóa thành rượu ngon, và sau này Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, các sự kiện nầy rất tượng hình gợi nhớ đến bánh và rượu dùng trong phép Thánh Thể, là của ăn thiêng liêng nuôi sống Giáo Hội, đem lại cho Giáo Hội sự bình an và niềm vui vô tận.  Chum nước rửa chân gợi nhớ đến giếng nước Thánh tẩy mà người Kitô hữu phải dìm mình trong cái chết của Đức Giêsu Kitô để được phục sinh.  Rượu nho nhắc nhớ đến ly rượu trong bữa tiệc ly được biến đổi bản thể thành Máu Chúa Kitô.  Phải chăng phép lạ Cana dọn đường đón nhận mầu nhiệm phép Thánh Thể sau nầy.

Bài Tin Mừng nhắc đến “Ngày thứ ba xảy ra có tiệc cưới tại Cana” (Ga 2, 1), gợi nhớ đến ngày thứ ba phục sinh, Đức Mẹ là người phụ nữ có mặt trong giờ phút đau thương dưới chân thập giá đang mong đợi Chúa phục sinh với các môn đệ.  “Trong tiệc cưới đó có thân mẫu của Đức Giêsu”, sự hiện diện của Đức Maria khẳng định vai trò của Mẹ trong công trình cứu chuộc, Mẹ sinh ra Đức Giêsu nơi hang đá, Mẹ cũng đồng hành với Đức Giêsu trong đời sống công khai, Mẹ thủ vai người trung gian can thiệp giữa nhân loại và Đấng cứu độ.  Mẹ đón nhận thánh Gioan làm con Đức Mẹ, Mẹ đồng hành với sinh hoạt của Giáo Hội.  Mẹ hiện diện trong mọi hoàn cảnh và giải cứu những bế tắc trong cuộc sống đời thường.

Lạy Chúa Giê su, qua sự can thiệp của Mẹ Maria, Chúa đã làm phép lạ đầu tiên dù giờ Chúa chưa đến, xin cho con biết chạy đến với Đức Mẹ mỗi khi gia đình gặp sóng gió, hết rượu tình yêu, hết kinh tế, hết sức sống, hết nghị lực và biết làm theo sự chỉ dẫn của Mẹ: “Người bảo gì thì cứ việc làm theo”. Amen

Lm Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh (gx Đức An, Pleiku)

—————————-

Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên

NIỀM VUI MỚI

Suy niệm

Theo Tin Mừng Gioan, sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa thì việc đầu tiên là chọn gọi các môn đệ, và sau đó là đến dự tiệc cưới tại Cana. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên có Đức Mẹ, và các môn đệ cùng đi. Theo tập tục Do Thái, tiệc cưới kéo dài cả tuần lễ, nhưng không may tiệc cưới này đến giữa chừng thì hết rượu. Đây là điều tối kỵ, vì thật xấu hổ cho gia chủ và đôi tân hôn. Cả nhà chủ tiệc không ai hay biết, thế mà Đức Maria đã nhận ra tình trạng này, và nói cho Đức Giêsu biết. Ngài đã biến nước thành rượu, trả lại bầu khí vui tươi cho tiệc cưới. Theo Tin Mừng Gioan, đây là dấu lạ đầu tiên mà Ðức Giêsu làm để bày tỏ vinh quang của Ngài, và các môn đệ đã tin vào Ngài.

Rượu là hình ảnh mà các ngôn sứ thường dùng để loan báo buổi bình minh của kỷ nguyên Đấng Mêsia. Đó là ý nghĩa sâu xa của phép lạ này, vì thứ nước dùng vào việc thanh tẩy của người Do Thái được Đức Giêsu biến thành rượu, nghĩa là nước của Cựu Ước đã hóa thành rượu của Tân Ước. Như thế, “Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi” (2Cr 5, 17). Thời đại Mêsia đã đến, Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, Ngài đến để thiết lập một trật tự mới, chan chứa niềm vui ơn cứu độ, như rượu mới dư dật trong tiệc cưới. Ba năm sau, cùng một thời điểm này ngay trước lễ Vượt Qua (2, 13), Đức Giêsu lại hóa rượu thành máu của Ngài cho muôn dân được hưởng ơn tha tội (Mt 26, 28).

Dấu lạ Cana chủ yếu cho chúng ta thấy Đức Giêsu là ai, đồng thời cũng cho chúng ta thấy được vai trò linh thiêng của Đức Maria. Với thái độ nhạy bén trước nhu cầu của tha nhân, Mẹ đã đưa ra lời thỉnh cầu một cách kín đáo và tế nhị với Con Mẹ,:“Họ hết rượu rồi”. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu xem ra không được thịnh tình: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến”. Thế nhưng Mẹ vẫn hoàn toàn tin tưởng nơi con Mẹ. Mẹ không hiểu Ngài sẽ làm gì và làm như thế nào, nhưng tin Ngài sẽ có cách cứu nguy cho bữa tiệc cưới, nên Mẹ bảo các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Sao Đức Maria lại dám bạo dạn nói như vậy khi chưa từng thấy con mình làm một phép lạ nào? Phải chăng với một tâm hồn trong suốt và một trực giác tinh anh, Mẹ đã nhận ra nơi Đức Giêsu một tính cách thần linh. Và để cứu giúp người khác, Mẹ đã dám mạo muội nói lên sự kín nhiệm của tâm hồn mình. Cuối cùng Đức Giêsu cũng đã làm theo ý muốn của Mẹ mình. Thật ra không phải vì ý muốn của Mẹ, nhưng qua đó Ngài nhận ra ý muốn của Chúa Cha.

Đúng là “giờ” của Đức Giêsu chưa đến, giờ mà Ngài được tôn vinh, giờ mà tình yêu Chúa Cha được biểu lộ tận cùng qua cái chết của Chúa Con. Thế nhưng Đức Giêsu không lệ thuộc vào khung cảnh thời gian tương đối, để có thể hành động đúng lúc theo ý định của Thiên Chúa. Mọi hành động trong cuộc sống đều có giờ, có nơi và có lúc của nó, nhưng phải chăng tình yêu đòi phải thể hiện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Tình yêu chẳng khác nào dòng nhựa sống của thân cây phải liên tục luân chuyển. Nói cách khác, tình yêu là nhịp đập của trái tim Thiên Chúa trong đời sống con người qua mọi hành động của Đức Giêsu.

Qua bài Phúc Âm này, chúng ta cũng cần nhìn ngắm sự hiện diện của Đức Maria: một sự hiện hiện cho người khác, vì người khác. Nếu ta có được sự hiện diện như Đức Mẹ, ta cũng sẽ đem lại sự nồng ấm và an vui cho gia đình, cho cộng đoàn. Đó cũng là một sự hiện diện bám sát lấy Chúa trong mọi tình huống, để chính Chúa làm mới lại tình yêu và cuộc sống của chúng ta mỗi ngày. Nếu chúng ta nghe Mẹ, cứ làm theo lời Chúa dạy, đời sống chúng ta sẽ được biến đổi tốt đẹp biết bao.

Hôm nay, Đức Giêsu vẫn tiếp tục bước vào đời sống của từng người, từng đôi tân hôn, từng gia đình. Bất cứ ai để cho Chúa bước vào đời mình sẽ nhận được một phẩm chất mới, giống như nước lã biến thành rượu ngon. Không có Đức Giêsu, cuộc đời vẫn ứ đọng, phẳng lì và chán ngán. Khi để cho Chúa bước vào đời ta, nghĩa là luôn ý thức sự hiện của Ngài, thì mọi cái sẽ trở nên sinh động và đầy hy vọng. Thiếu sự kết nối với Chúa, ta sẽ cảm thấy cuộc đời cô đơn, trống vắng. Đặt mình trong Chúa, ta sẽ tìm thấy sự an vui và những điều kỳ điệu.

Ước chi mỗi khi đêm về, gia đình chúng ta lại xúm xít bên nhau và quây quần bên Chúa, vang lên lời kinh chúc tụng tạ ơn Chúa với những lời kinh Mân côi, để được Mẹ dắt dìu chúng ta đến với Chúa Giêsu. Cũng từ đó mà niềm vui và sức sống lại tràn về trong tổ ấm gia đình. Đó mới thật là một gia đình có Chúa, của Chúa, một hội thánh tại gia, góp phần với Chúa đem lại sự tươi mới cho xã hội hôm nay.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Tiệc cưới là biểu hiện của niềm vui,
niềm vui của sự sống rất phong nhiêu,
của ân ban trong tất cả mọi điều,
vì chính là kết quả của tình yêu.

Nhưng tình yêu vẫn thường bị đe dọa,
khi cuộc sống bất trung và bất tín,
khi con người vẫn thiếu một lòng tin,
không dám sống một cuộc đời chân chính.

Chúa đã hóa nước lã thành rượu ngon,
để con thấy sự hiện diện của Ngài,
làm nên sự tươi mới ở mọi nơi,
đem an vui hạnh phúc cho mọi thời.

Nếu không có sự hiện diện của Chúa,
sợ rằng mọi tiệc cưới sẽ lụi tàn,
có lẽ mọi niềm vui cũng sẽ tan,
và gia đình lại sống kiếp hoang mang.

Có Chúa là mọi sự sẽ tươi mầu,
cuộc đời bớt khốn khổ và lo âu,
tình yêu lại đẹp như thuở ban đầu,
và hạnh phúc tươi thắm mãi ngàn sau.

Dấu lạ Ca-na ân phúc chan hòa,
cũng là nhờ có Đức Ma-ri-a,
Mẹ sẽ thấy tình cảnh của mỗi nhà,
luôn kịp thời để bầu cử cho ta.

Xin cho con luôn cận kề bên Mẹ,
biết quan tâm phục vụ thật hăng say,
biết để tâm làm theo điều Chúa dạy,
cho niềm vui và tình mến dâng đầy. Amen.

Lm. Thái Nguyên

—————————-

Suy niệm 4: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2:5).

Quý ông bà và anh chị em thân mến,

Giáo hội chọn đoạn Lời Chúa Ga 2:1-12 cho ngày Chúa Nhật thứ hai Mùa Thường Niên Năm C hôm nay. Với đoạn Lời Chúa này, chúng ta thử cầu nguyện bằng cách đặt mình vào khung cảnh của Tiệc Cưới Ca-na để chiêm ngắm hình ảnh Mẹ Maria cách rõ nét nhất. Trong bữa tiệc này, Đức Mẹ chỉ nói hai câu mà thôi: “Họ hết rượu rồi” (nói với Con Mẹ) và “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (nói với người đời). Bây giờ, dựa vào hai lời vàng ngọc của Mẹ, chúng ta cùng nhau chiêm ngắm Mẹ, lòng tin của Mẹ và vai trò của Mẹ, để học với Mẹ trên hành trình làm người môn đệ của Chúa Giêsu, những người theo Chúa trong yêu mến và tín thác trọn cuộc đời.

Khi đặt mình vào khung cảnh và vai trò của Mẹ Maria trong tiệc cưới Ca-na, không ít người sẽ nói với Đức Giê-su nhiều điều, chẳng hạn như “Họ hết rượu rồi, sao con không giúp họ?”, “Con chẳng biết quan sát và quan tâm đến người khác gì hết! Rượu hết rồi! Mọi người đang mất hứng, chủ nhà đang bối rối, con làm gì để giúp họ đi chứ?”, v.v.. Tuy nhiên, cách hành xử của Mẹ hoàn toàn khác. Mẹ không nói nhiều. Mẹ chỉ nói “họ hết rượu rồi”! Mẹ không muốn ép buộc Con Mẹ làm bất cứ điều gì. Nói cách khác, Mẹ tôn trọng tự do của Con Mẹ, cách xử lý tình huống của Con Mẹ. Mẹ chỉ nêu lên vấn đề, những điều còn lại Mẹ hoàn toàn tin vào Con Mẹ. Mẹ không điều khiển Con Mẹ. Không những thế Mẹ còn chỉ dẫn người khác làm theo ý của Con Mẹ: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” diễn tả sự thông hiểu giữa hai Mẹ Con – một sự thông hiểu thần nhiệm. Chúng ta có thể quay trở lại cuộc đối thoại ngắn ngủi giữa hai ngôi vị: Mẹ nói: “Họ hết rượu rồi”, Con trả lời: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”, Mẹ nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”, sau cùng Đức Giê-su đã thực hiện lời Mẹ Người thông tri là biến nước thành rượu. Qua mẩu đối thoại này, tôi nhận thấy có điều gì đó mâu thuẫn, bởi lẽ có vẻ Đức Giê-su không muốn làm gì hết, không thích lời thông tri của Mẹ Người, thế nhưng Người lại làm theo lời Mẹ. Tại sao vậy? Phải chăng Đức Giê-su cảm nhận được tình yêu và sự quan tâm ưu ái của Mẹ dành cho đôi tân hôn và khách dự tiệc? Phải chăng lời nhắc nhở “họ hết rượu rồi” là lời tín thác và tôn trọng quyền quyết định của Đức Giê-su, là lời thông hiệp vai trò cứu chuộc của Mẹ dành cho Đức Giê-su? Phải chăng lời mời gọi “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” như một lời phục tùng của Hiền Thê dành cho Tân Lang, làm thăng hoa mối dây liên kết không thể tách rời của đời hôn nhân, của giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại?

Thật thế, với lòng tín thác, khiêm cung và yêu mến của Mẹ Maria dành cho Con Mẹ, Đức Giê-su đã phá lệ và thực hiện điều Mẹ Người mong muốn. Từ đó, chúng ta dễ dàng nhận ra vai trò của Mẹ trên cuộc sống đức tin của chúng ta và học nơi Mẹ lòng tín thác vào Chúa để Người thực hiện những điều kỳ diệu trên chúng ta.

Hình ảnh của Mẹ Maria trong đoạn Lời Chúa hôm nay có thể sẽ chất vấn nhiều người mẹ Công giáo hiện nay trong cách giáo dục và bồi dưỡng đức tin cho con cái. Người mẹ Công giáo nên làm gì để có thể đối thoại với con cái trong tin yêu và tôn trọng? Người mẹ Công giáo hôm nay cần sống mối liên đới với Thiên Chúa và với chính con cái của mình như thế nào để giúp con cái trở nên người hữu ích cho người khác, cho gia đình, cho xã hội và cho Giáo hội? Người mẹ Công giáo có nên đặt niềm tin vào con cái mình trong tinh thần cầu nguyện và tín thác vào Thiên Chúa? Đồng thời, trong vai người vợ, các phụ nữ trong gia đình có luyện tập để đạt tới mức độ “thần dao cách cảm”, thấu hiểu người chồng, như Mẹ Maria dành cho Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay không?

Chúc quý vị cầu nguyện sốt mến!

Lm Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ (Gp Kon Tum)

WGPKT(18/01/2025) KONTUM