Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người.
Bài trích sách ngôn sứ Ma-la-khi.
1 Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này : Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, – Đức Chúa các đạo binh phán. 2 Ai chịu nổi ngày Người đến ? Ai đứng được khi Người xuất hiện ? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. 3 Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc ; Người sẽ thanh tẩy con cái Lê-vi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc. Bấy giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. 4 Lễ vật của Giu-đa và của Giê-ru-sa-lem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những năm thuở trước.
Đ.Chính Chúa Tể càn khôn là Đức Vua vinh hiển.
7Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên,
cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Đức Vua vinh hiển ngự vào.
Đ.Chính Chúa Tể càn khôn là Đức Vua vinh hiển.
8Đức Vua vinh hiển đó là ai ?
Là Đức Chúa mạnh mẽ oai hùng
Đức Chúa oai hùng khi xuất trận.
Đ.Chính Chúa Tể càn khôn là Đức Vua vinh hiển.
9Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên,
cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Đức Vua vinh hiển ngự vào.
Đ.Chính Chúa Tể càn khôn là Đức Vua vinh hiển.
10Đức Vua vinh hiển đó là ai ?
Là Chúa Tể càn khôn :
chính Người là Đức Vua vinh hiển.
Đ.Chính Chúa Tể càn khôn là Đức Vua vinh hiển.
Đức Giê-su đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành vị thượng tế nhân từ.
Bài trích thư gửi tín hữu Híp-ri.
14 Thưa anh em, vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giê-su đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, 15 và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. 16 Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Áp-ra-ham. 17 Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. 18 Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Đức Ki-tô là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Chúa. Ha-lê-lui-a.

Chính mắt con được thấy ơn cứu độ.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
22 Khi đã đủ thời gian, đến ngày các ngài phải được thanh tẩy theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng : “Mọi con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa”. 24 Ông bà cũng lên để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để làm điều người ta quen làm theo luật dạy, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng :
29“Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31Chúa đã dành sẵn cho muôn dân :
32Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những điều người ta nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi : “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. 35 Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà. Như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.”
36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ là bà An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
39 Khi hai ông bà đã hoàn tất mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về thành của mình là Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
(Nguồn: ktcgkpv.org)
—————————-
Suy niệm 1: Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy niệm 1: ÁNH SÁNG VINH QUANG
“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh,
ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
__________________________
Suy niệm 2: DÀNH RIÊNG CHO CHÚA
Sau khi sinh Hài Nhi Giêsu bốn mươi ngày,
Đức Maria phải chịu thanh tẩy để được phép tham dự các lễ nghi.
Bà mẹ mới sinh con phải vất vả đi đoạn đường xa để lên Đền Thờ.
Bà không đi một mình, nhưng đi với chồng và đứa con hơn tháng tuổi.
Đây là chuyến đi lên Đền Thờ đầu tiên của cả gia đình.
Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện trên trần gian.
Con Thiên Chúa lần đầu tiên đến Nhà Cha của Ngài.
Giây phút Thánh Gia có mặt ở khuôn viên Đền Thờ
là giây phút Thánh Thần mặc khải về Hài Nhi cho hai vị ngôn sứ.
Simêôn và Anna vui sướng vì gặp thấy Đấng mà mình chờ đợi.
Họ nhận ra Ngài là “vinh quang cho dân Ítraen”,
và là “ánh sáng và ơn cứu độ cho muôn dân tộc” (Lc 2,31-33).
Maria mang theo lễ vật cần cho việc thanh tẩy chính mình,
đó là hai con bồ câu non: một làm lễ toàn thiêu, một làm lễ tạ tội.
Thật ra lễ vật của đôi vợ chồng không phải chỉ là đôi bồ câu.
Họ mang theo một lễ vật quý hơn nhiều, đó là cậu con trai đầu lòng.
Họ biết tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa,
vì chính Ngài đã chỉ đánh phạt các con đầu lòng của Ai-cập
và tha cho các con đầu lòng của Ítraen (Ds 3,13).
Nhưng Hài Nhi Giêsu không phải là con đầu lòng bình thường.
Maria và Giuse biết người con mình đang bồng ẵm là ai.
Đây là Đấng Kitô của Đức Chúa (Lc 2,26),
Đấng mà Maria đã thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1,35).
Đây là quà tặng của Đức Chúa cho dân Ítraen, và cho Thánh Gia.
Khi lên Đền Thờ, Giuse và Maria muốn dâng lại cho Đức Chúa
quà tặng tuyệt vời này.
Ông bà không muốn giữ Người Con này cho riêng mình.
Người Con này thuộc về Đức Chúa và mãi mãi thuộc về Đức Chúa.
Tin Mừng Luca không nói rõ chuyện ông bà chuộc Giêsu
bằng một số bạc nhỏ, để giữ Giêsu làm con của mình (Ds 3,46-47),
nhưng lại nhấn mạnh chuyện ông bà dâng Con cho Đức Chúa.
Tuy dâng con trai đầu lòng không phải là một luật buộc,
nhưng ông bà muốn làm vì lòng kính mến Chúa,
và cả hai đã muốn sống lễ dâng này suốt đời mình.
Mẹ Maria đã không rút lại Người Con mình dâng cho Chúa.
Giêsu được tự do để sống như một lễ vật cho Cha.
Năm mười hai tuổi, Giêsu đã ở lại Đền Thờ, nhà Cha của Cậu.
Khi quá tuổi ba mươi, Đức Giêsu đã lên đường đi sứ vụ
Để lại người mẹ ở nhà, không ai chăm nom.
Khi Con bị đóng đinh trên thập giá, dâng mình như lễ vật lên Cha,
Mẹ cũng dâng lễ vật là chính Người Con đang hấp hối của mình.
Những gì cụ Simêôn nói hôm nay ở Đền Thờ,
rồi Mẹ sẽ thấy được ứng nghiệm trọn vẹn (Lc 2,34-35).
Con Mẹ sẽ bị người đời chống báng,
có nhiều người bị té ngã và nhiều người được đứng lên.
Dưới chân thánh giá, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Mẹ.
Nỗi đau của Con Mẹ, Mẹ mang tất cả vào mình.
Khi Đức Giêsu gục đầu, việc dâng Con của Mẹ mới được hoàn tất.
Trong lễ Thánh Tẩy, cha mẹ cần dâng con cho Chúa,
và mong con mình được thánh hiến để thuộc trọn về Chúa.
Cả cuộc đời làm cha mẹ, nhiều lần phải làm lại việc dâng hiến này,
lắm khi trong nước mắt, lắm khi trong bóng đêm,
nhưng luôn tín thác, dù không hiểu hết kế hoạch của Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
—————————-
Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh
ĐỆ NHẤT THỪA SAI ĐẾN TRẦN GIAN
Lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh nhắc lại sứ điệp ‘Tin Vui Mừng’ cho cả thế giới Do thái thời Cựu ước, hằng mong chờ qua nhiều thế kỷ, hôm nay được công bố tỏ tường trước toàn dân qua lễ nghi dâng Chúa Giêsu trong đền thờ. Khung cảnh là đền thờ Giêrusalem, các nhân vật chính là gia đình Thánh gia thất và dân chúng đến tôn thờ Thiên Chúa. Gia đình thánh gia gặp gỡ ông già Simêôn và bà Anna cao niên, cả hai là đại biểu cho dân chúng thời cựu ước. Ý nghĩa ngày lễ không chỉ có tính cách gia đình là dâng con cho Thiên Chúa theo luật định mà thôi, nhưng còn thâm sâu ý nghĩa thần học được hội tụ lại nơi Con Trẻ Giêsu, qua lời ngôn sứ Malakhi loan báo trong Bài đọc 1 (Mlk 3,1-4). Đức Giêsu là đệ nhất thừa sai của Thiên Chúa đến trần gian mở đầu cho công cuộc loan báo TIN MỪNG cho muôn dân, tư tưởng nầy được củng cố mạnh mẽ “Cùng Nhau Loan Báo Tin Mừng”, như chủ đề của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đề ra cho năm phụng vụ 2025.
“Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế nầy: ‘Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bổng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến’ ” (Mkl 3, 1). Lời sấm của tiên tri Malakhi ứng nghiệm ngay lúc nầy, nơi con Trẻ Giêsu, xảy ra trong Thánh Điện, khi gia đình Thánh gia dâng con cho Thiên Chúa. Tất cả giao ước thời Cựu ước được hội tụ lại nơi Con Trẻ Giêsu, Người thực hiện trọn vẹn giao ước giữa Thiên Chúa và các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp.
Người là Chúa Thượng, là Đấng Mêsia, là Đấng cứu tinh dân tộc, Người xuất hiện trong đền thánh Giêrusalem, là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và Dân của Người. Đại diện cho dân Cựu Ước là hai tiên tri Simêôn và Anna. Hai vị lão thành trong đức tin chờ mong nhìn tận mắt Đấng cứu thế, và họ thỏa lòng mong ước khi ông Simêôn ẳm lấy Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ nầy được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân ” (c. 29. Bài Tin Mừng Lc 2, 22-32). Một lời tuyên bố công khai sứ điệp vui mừng cho toàn nhân loại, Đức Chúa đã đến viếng thăm và gặp gỡ dân Người trong Thánh Điện của Người. Như thế cho thấy:
Lời tiên tri của Simêôn vượt quá khung cảnh gia đình và dân tộc Do thái, hướng đến ơn cứu độ phổ quát và hoàn vũ, Thiên Chúa đến gặp gỡ nhân loại nơi Thánh Điện của Người, trước sự đông đảo dân chúng trong nghi lễ dâng con cho Thiên Chúa. Hài Nhi Giêsu đó chính là Đấng Cứu Thế, là Đấng Mêsia.
Đấng Mêsia đến để thanh tẩy dân chúng, thanh tẩy không chỉ hiểu theo nghĩa luân lý mà thôi, Người đến như ngọn đèn chiếu sáng, không thể đem đặt dưới đáy thùng nhưng phải đặt trên gía để chiếu soi muôn dân. Như Đấng đầy quyền năng Người đường bệ đi vào nhà mình: “Người đi vào Thánh Điện của Người”. Trước sứ mệnh cao cả và hoàn vũ nầy, cha mẹ của Chúa Giêsu như tước bỏ quyền sở hữu về đứa con bé bỏng của mình để con thi hành sứ mệnh cao cả theo ý Cha.
Chúng ta nhớ lại trình thuật thánh Giuse và mẹ Maria lạc con khi Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cùng cha mẹ lên đền thờ dự lễ, hai ông bà thấy vắng con, đã tốc hành cuốc bộ ba ngày về đền thờ tìm con, khi gặp con Mẹ Maria chia sẻ nỗi âu lo của Mẹ và được Thiếu Nhi Giêsu trả lời. “Người thưa: ‘Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của cha con sao ?’”(Lc 2, 49). Tìm Chúa ở đâu nếu không phải nơi đền thờ, có khi là đền thờ tâm hồn.
Lễ Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh thường được cử hành tiếp theo sau nghi thức làm phép nến và kiệu nến nơi một số cộng đoàn tu sĩ, như nhắc lại lời tận hiến đời mình cho Thiên Chúa trong ơn gọi tu sĩ với ba lời khấn. Dâng mình cho Thiên Chúa để phó thác đời mình cho Thiên Chúa, nhưng hơn thế nữa để con người cộng tác vào công việc của Thiên Chúa dưới nhiều hình thức khác nhau trong đa dạng lãnh vực truyền giáo. Nghĩa là kẻ dâng mình cho Thiên Chúa nối dài sứ điệp vui mừng đến với muôn dân mà Chúa cứu thế đã thể hiện trong cung thánh đền thờ.
Ánh sáng đến với muôn dân. Một hình ảnh giúp thấy khá rõ việc Giáo hội truyền rao sứ điệp tin mừng qua những lần các Đức Giáo Hoàng được mời dự Hội Nghị Liên Hiệp Quốc để trao đổi, giảng dạy và hướng dẫn hướng đi của thế giới. Đã có 5 lần các vị Giáo hoàng được mời dự Hội Nghị và các ngài được mời đọc diễn văn trước các nhà lãnh đạo các quốc gia, thường là 193 nước. Lần cuối cùng là ngày 25 tháng 9 năm 2015, tại New York, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đọc diễn văn về “Bảo vệ ngôi nhà chung”, là trái đất, theo tinh thần của thông điệp ‘Laudato Si; của ngài, thông điệp nói về bảo vệ môi trường. Những lần các Giáo Hoàng dự Hội Nghị Liên Hiệp Quốc: Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô đệ VI, năm 1965. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, năm 1979 và 1995. Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđitô 16, năm 2008.
Lạy Thánh gia thất xin cho gia đình con biết sống theo lời Chúa dạy, biết chu toàn luật Chúa và biết lo cho thiện ích của Giáo hội hơn thiện ích riêng của gia đình. Amen
Lm Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh (gx Đức An, Pleiku)
—————————-