Chúa Nhật XV Thường Niên, Năm C (CN 13.07.2025) – Mến Chúa Yêu Người (Lc 10,25-37)

Bài đọc 1: Đnl 30,10-14

Lời Chúa ở rất gần anh em, để anh em đem ra thực hành.

Bài trích sách Đệ nhị luật.

10 Khi ấy, ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng : “Anh em hãy nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ.

11 “Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em. 12 Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh em phải nói : ‘Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành ?’ 13 Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển, khiến anh em phải nói : ‘Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành ?’ 14 Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành.”

Đáp ca: Tv 68,14 và 17.30-31.36ab và 37 (Đ. x. c.33)

Đ.Hỡi những ai nghèo hèn, hãy kiếm tìm Thiên Chúa,
là tâm hồn phấn khởi vui tươi.

14Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện,
lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân.
Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày,
vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ.17Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con ;
xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến.

Đ.Hỡi những ai nghèo hèn, hãy kiếm tìm Thiên Chúa,
là tâm hồn phấn khởi vui tươi.

30Phần con đây, thật khốn cùng đau khổ,
lạy Chúa Trời, xin cứu vớt đỡ nâng.31Tôi sẽ hát bài ca chúc mừng Danh Thánh,
sẽ dâng lời cảm tạ tán dương Người.

Đ.Hỡi những ai nghèo hèn, hãy kiếm tìm Thiên Chúa,
là tâm hồn phấn khởi vui tươi.

36abVì Chúa Trời sẽ giải cứu Xi-on,
các thành thị miền Giu-đa, Người cũng tái thiết.37Miền đất ấy sẽ trở nên gia tài
của giống nòi các tôi tớ Chúa,
thành quê hương xứ sở
của những người mến chuộng Thánh Danh.

Đ.Hỡi những ai nghèo hèn, hãy kiếm tìm Thiên Chúa,
là tâm hồn phấn khởi vui tươi.

Bài đọc 2: Cl 1,15-20

Muôn loài đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Đức Ki-tô và cho Đức Ki-tô.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-xê.

15Đức Giê-su Ki-tô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,
là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo,
16vì trong Người, muôn vật được tạo thành
trên trời cùng dưới đất,
hữu hình với vô hình.
Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng
hay là bậc quyền năng thượng giới,
tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng
nhờ Người và cho Người.
17Người có trước muôn loài muôn vật,
tất cả đều tồn tại trong Người.
18Người cũng là đầu của thân thể,
nghĩa là đầu của Hội Thánh ;
Người là khởi nguyên,
là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại,
để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.
19Vì Thiên Chúa đã muốn
làm cho tất cả sự viên mãn
hiện diện ở nơi Người,
20cũng như muốn nhờ Người
mà làm cho muôn vật
được hoà giải với mình.
Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá,
Thiên Chúa đã đem lại bình an
cho mọi loài dưới đất
và muôn vật trên trời.

Tung hô Tin Mừng: x. Ga 6,63c.68c

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Lạy Chúa, Lời Chúa là thần khí và là sự sống ; Chúa có những lời đem lại sự sống đời đời. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng: Lc 10,25-37

Ai là người thân cận của tôi ?

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

25 Khi ấy, có người thông luật kia muốn thử Đức Giê-su mới đứng lên hỏi Người rằng : “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” 26 Người đáp : “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?” 27 Ông ấy thưa : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” 28 Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”

29 Tuy nhiên, ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng : “Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” 30 Đức Giê-su đáp : “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới chỗ nạn nhân, thấy vậy thì động lòng thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu xức vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói : “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.” 36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” 37 Người thông luật trả lời : “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

(Nguồn: ktcgkpv.org)

—————————

Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên

 

 

Khi nói đến lời của một ai là chúng ta nói đến chính con người đó. Khi tôn trọng và quý mến người nào, thì chúng ta cũng tôn trọng quý mến lời dạy và gương sáng của người ấy. Một nhân vật càng uy tín bao nhiêu thì lời nói của người ấy càng được lắng nghe và đón nhận. Cũng vậy, khi nói đến Lời Chúa hoặc Luật Chúa, là chúng ta nói chính Thiên Chúa, Đấng quyền năng và yêu thương mỗi người và tất cả chúng ta.

Hai chữ “lề luật” dễ gợi cho chúng ta liên tưởng tới những ràng buộc, hạn chế và gây phiền toái cho con người. Tuy vậy, những điều được quy định trong dân luật cũng như trong Giáo Luật đều nhằm giúp ổn định trật tự cuộc sống, bảo vệ công ích và giúp thăng tiến con người. Một người công dân tuân giữ luật pháp sẽ góp phần làm cho quốc gia phồn thịnh. Một người tín hữu tuân giữ luật Giáo Hội sẽ góp phần làm cho đức tin thăng tiến nơi bản thân và cộng đoàn.

Lề Luật của Chúa không giống như những bộ luật dân sự, là luật chỉ nhằm quy định những gì bên ngoài con người, và chỉ nhằm duy trì trật tự xã hội. Ông Môi-sen nói với dân: “Lời Chúa rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành.” Theo giáo huấn của ông Môi-sen, Lề Luật và Lời của Chúa phải thấm nhập vào chính con người của những ai tin Chúa, đồng thời trở thành động cơ cho mọi hoạt động, mọi gợi ý cho tư tưởng. Cũng trong tinh thần này, mà những người Do Thái đạo đức thường khởi đầu ngày mới bằng kinh cầu nguyện được gọi là “Shema Israel”“Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em.” (Đnl. 6, 4-5). Lời kinh này giúp người tín hữu luôn ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, và họ cố gắng tìm cách sống đẹp lòng Người.

Nếu dân tộc Do Thái trong Cựu ước sống theo Luật ông Môi-sen, là luật bằng văn tự, thì Đức Giê-su Ki-tô chính là hiện thân của Lề Luật, là sự sống động của lề luật, và là con đường để con người có thể đến gần với Thiên Chúa thông qua việc yêu thương và vâng phục. Nói thế không có nghĩa Chúa Giê-su đến để hủy bỏ luật cũ, như chính Người đã khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay các Ngôn sứ, Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).

Qua dụ ngôn người Sa-ma-ri-a nhân hậu, Chúa Giê-su khẳng định tính mới mẻ trong giáo huấn của Người: Những người đi qua người bị nạn trước hết là một tư tế, rồi thầy Lê-vi. Xin lưu ý hai người này là những người Do Thái đạo đức và học hành uyên thâm, nhưng họ đã làm ngơ trước người bị nạn. Trong khi đó, người Sa-ma-ri-a là một người ngoại, cũng là một dân tộc bị người Do Thái mang mối thù truyền kiếp qua nhiều thế hệ. Người này cũng chẳng học hành uyên thâm và không mang chức vụ danh nghĩa nào. Ấy vậy, mà ông đã cứu giúp người gặp nạn. Mối quan tâm của thầy tư tế và Lê-vi là khái niệm về sự thanh sạch và sự tuân giữ tỉ mỉ Lề Luật ông Môi-sen. Mối quan tâm của người Sa-ma-ri-a là con người trong cơn hoạn nạn, bất kể đó là ai. Trong dụ ngôn, Chúa Giê-su khéo léo dùng những hình ảnh tương phản giữa các nhân vật: người thông luật thì thiếu bác ái; người chẳng hiểu gì về luật, thì lại có lòng cảm thương. Qua câu chuyện này, Chúa Giê-su muốn nêu bật ý nghĩa mới mẻ của đức yêu thương mà Người giảng dạy. Đó là đức bác ái đích thực. Bởi lẽ con người ta chỉ được hạnh phúc khi làm cho người khác được hạnh phúc. Sự chu đáo của người Sa-ma-ri-a, hứa sẽ trả tiền thêm khi quay về, làm nổi bật lòng nhân hậu của ông. Dụ ngôn này là lời mời gọi những người Do Thái có mặt hãy nhìn đức ái với một khía cạnh khác.

Người thông luật đặt câu hỏi với Chúa Giê-su, là muốn thử Người. Những điều ông chờ đợi từ câu hỏi của Chúa, đơn giản chỉ là những nguyên tắc ghi sẵn trên sách vở, hoặc những điều mà các luật sĩ rao giảng hằng ngày. Việc người thông luật trả lời làu làu những nguyên tắc này cho thấy ông muốn tỏ mình là người thông thạo khôn ngoan. Chúa Giê-su không bằng lòng với những khuôn sáo lý thuyết, mà Người mời gọi con người hãy thực hành đức yêu thương. Câu nói cuối cùng của Chúa, vừa gợi mở một bài học sâu sắc, vừa giúp chúng ta nhìn lại bản thân để xem xét cách ứng xử của mình: “Ông hãy đi và hãy làm như vậy”. Tác giả Lu-ca không cho biết thêm người ấy phản ứng thế nào sau câu nói của Chúa. Có thể Lu-ca muốn mỗi chúng ta đều nhận ra mình nơi nhân vật người thông luật đó.

Chúa Giê-su không chỉ là người dạy về lề luật mà còn là tấm gương để mọi người noi theo. Bằng cách sống theo lời dạy của Người, người tín hữu có thể thể hiện tình yêu thương và sự vâng phục đối với Thiên Chúa, từ đó sống một cuộc đời ý nghĩa và đẹp lòng Ngài. Những gì được Thánh Phao-lô viết trong Thánh thi ca ngợi đã nêu rõ vai trò của Đức Giê-su trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người là đích điểm cuộc đời của chúng ta. Nhờ máu Người mà chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi. Nhờ sự chết và phục sinh của Người mà chúng ta được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương với tình yêu khôn tả mà Ngài đã dành cho người Con Một yêu dấu (Bài đọc II).

Lề Luật của Chúa Giê-su tóm gọn trong hai chữ “yêu thương”. Thánh Phao-lô khẳng định: “Đã yêu thương thì không làm hại đồng loại. Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10). Thánh Gio-an tông đồ nói: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm”. Người Sa-ma-ri-a đã làm như thế.

Xin Chúa đánh động con tim chúng ta, để biết cảm thương những anh chị em thiệt phận khó nghèo.

+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

(Nguồn: tonggiaophanhanoi.org)

—————————

 

Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh

NGƯỜI  SAMARI NHÂN HẬU

 

Người Samari nhân hậu là chủ đế của Chúa nhật 15 C.  Lời Chúa soi sáng buổi cử hành phụng vụ và mặc cho nó tính phong phú và sâu rộng, dĩ nhiên đừng coi đây là bài học thuần túy luân lý (chỉ dạy làm điều thiện, tránh việc ác).  Chuyện người thông luật hỏi Đức Giêsu làm thế nào để có sự sống đời đời.  Người đã bắt ông trả bài về điều luật dạy, người thông luật trích dẫn sách Đệ Nhị Luật 6,4: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi”, và ông đọc tiếp sách Lêvi 19,18: “và yêu người thân cận như chính mình”.  Đức Giêsu khen lời trích dẫn của ông phù hợp với giáo huấn của Chúa và khuyên ông thực hành như vậy.

Nhưng nhà thông luật vặn lại: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (x. Bài Tin Mừng Lc 10, 25-37).  Ông ta muốn đi vào thực tế hơn là lý thuyết trong sách vở. Chúng ta biết rằng vào thời đó có nhiều chủ trương khác nhau được các tiến sĩ luật tranh luận về luật nào quan trọng nhất, người thì cho rằng tôn thờ Thiên Chúa là điều quan trọng nhất, tức là độc thần giáo, chỉ thờ một mình Thiên Chúa mà thôi; người thì cho rằng luật yêu thương là quan trọng nhất.  Đức Giêsu là người Đông Phương, Người trả lời bằng một dụ ngôn hơn là lý giải theo não trạng Tây Phương dựa vào luận lý, có khuynh hướng chẻ sợi tóc làm bốn.  Tố chất người Đông Phương là huyền bí.

Câu chuyện xảy ra trên con đường dài 25 cây số từ Giêrusalem đến Giêrikhô, về mặt địa dư kinh thành Giêrusalem cao hơn Giêrikhô chừng 1.000 mét, một cuộc phục kích của đạo tặc đã cướp tài sản và đánh thừa sống thiếu chết một bộ hành.  Xuất hiện ba nhân vật đi ngang qua hiện trường nầy gồm có thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari, cả ba đếu bất ngờ gặp người bị nạn nằm lề đường vào thời điểm khác nhau.  Thầy tư tế và thầy Lêvi, đại diện cho hàng lãnh đạo Do thái, cả hai chức sắc vội tránh sang mé bên kia đường và nhanh chân tiến bước không ngoái cổ lại, có lẽ các thầy nhớ điều khoản nầy trong sách Dân số 19,11-13.16 : cấm không được đụng vào xác chết, ai đụng vào thì mắc ô uế trong 7 ngày, như thế sẽ không dâng lễ tế được. 

Tuy nhiên các thầy chóng quên câu nói của tiên tri Hôsê 6,6: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ”.   Người thứ ba đi ngang qua đó là cư dân Samari, ông bị coi là kẻ lạc giáo, đạo ba rọi, đối chọi với hai vị thầy đáng kính của đền thờ. Ông nhận thấy ở hiện trường có người lâm nạn, ông động lòng trắc ẩn, xuống lừa ra tay cứu giúp, băng bó, xoa bóp và đem đến quán trọ và trả tiền thuốc men.   Xứ Samari nằm ở miền trung nước Do thái, xứ nầy đã bị xâm chiếm và cai trị bởi nhiều sắc dân khác nhau, cho nên tôn giáo của Samari ngã theo đa thần giáo so với tôn giáo được coi là tinh ròng của người Do thái ở Giuđê thuộc miền Nam nơi đây có thành thánh Giêrusalem.  Cho nên có sự kỳ thị, tẩy chay nhau giữa người Do thái và người Samari, họ bị người Do thái khinh bỉ vì theo đạo hỗn hợp.

Kể xong câu chuyện, Đức Giêsu  hỏi ý kiến : “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”  Chúng ta nhận thấy Đức Giêsu đảo ngược câu hỏi của nhà thông luật, thay vì trả lời câu hỏi “Ai là người thân cận”,  thì Người lại hỏi “Ai đã tỏ ra thân cận với người gặp nạn ?”   Cách đặt vấn đề như tích cực chất vấn người đặt câu hỏi.  Thật ra câu hỏi “Ai là người thân cận” không quan trọng bằng câu hỏi ‘tôi đã tỏ ra thân cận với ai’.  Nhận ra người thân cận không quan trọng bằng tỏ ra thân cận với họ, đó chính là thái độ tích cực thực hành tôn giáo, sống tình huynh đệ đối với tha nhân.  Cách hành xử tốt với tha nhân kéo người tín hữu ra khỏi mớ lý thuyết, nó sẽ vô tích sự nếu không đem ra ứng dụng trong đời sống.

Tỏ ra thân cận giả thiết có sự cảm thông, am hiểu hoàn cảnh và quảng đại hy sinh thời giờ, tiền bạc, giúp đỡ người lâm nạn, bằng lòng liên lụy với họ, đó là sống bác ái bằng hành động.  Bài học rút được từ dụ ngôn nầy là có khi chúng ta tự hào quá đáng về tư cách Kitô hữu của mình mà quên đi tỏ ra thân cận với tha nhân, quên sống bác ái với người gặp nạn, thử hỏi liệu tín hữu đó hơn gì lương dân.  Động lòng trắc ẩn thi hành bác ái, là quy luật không miễn chuẩn cho bất cứ giới chức nào trong Giáo Hội.

Người bị nạn đó là ai?  Là người gặp bất hạnh về tinh thần và vật chất trong đời thường.  Có thể là chính chúng ta, lúc đó sự quan tâm của ai khác dù là một lời nói, là sự có mặt hay một lời cổ vũ động viên, tất cả đếu rất quý và được đón nhận ghi ơn.  Biết đâu kẻ đó lại là một Đức Kitô bị bỏ rơi xuất hiện qua một thân xác nghèo khổ, nhớ lại lời của Tin mừng Mátthêu (25, 35-45) khi làm một việc nhỏ cho kẻ bất hạnh là làm cho chính Đức Giêsu.  Và người Samari nhân hậu đó là Ai?  Có nhà chiêm niệm cho rằng đó là Đức Giêsu Kitô và kẻ bộ hành là nhân loại bị thương tích trầm trọng, được chính Đấng Cứu Độ thương giúp tận tình ban lại cho con người tình thương và sự sống.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con có tâm hồn nhạy cảm, biết cảm thông và ra tay giúp đỡ tha nhân, là dấu chỉ thân cận mà Chúa đòi hỏi; xin cho con đừng chỉ ngồi chờ, mong đợi người khác tỏ ra thân vận mà tích cực tỏ ra thân cận với tha nhân. Amen

(Lm Luy Nguyễn Quang Vinh, Giáo xứ Đức An, Pleiku)

___________________________________

Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên

Ai Là Người Thân Cận

Suy niệm

Yêu mến Thiên Chúa hết tình và yêu người thân cận như chính mình là điều kiện để đạt tới sự sống đời đời. Nhưng câu hỏi được nêu lên: “Ai là người thân cận của tôi ?”. Người Do Thái vẫn hiểu đó là đồng bào, đồng đạo, thuộc dân Thiên Chúa. Phải chăng vị luật sĩ muốn tìm một câu định nghĩa toàn bích hơn về “người thân cận”? Nhưng đối với Đức Giêsu, định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận. Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận với mình, thì tốt hơn là nên tìm hiểu mình là người thân cận với ai? Nói cách khác, nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những ai đang cần mình giúp đỡ. Với ý hướng đó, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn vừa cụ thể vừa sâu sắc, vừa éo le vừa lạ lùng.

Éo le là vì đứng trước tình cảnh một người đang bị trọng thương trên đường, mà thầy Tư tế và Lê vi lại làm ngơ, giả vờ như không thấy, và tránh qua bên kia đường mà đi. Lạ lùng là người Samari ngoại giáo vừa trông thấy nạn nhân, đã đến cứu giúp tận tình, mà nạn nhân đó có thể là người Do Thái, kẻ thù của dân tộc mình. Người Samari đã sống luật yêu thương một cách trọn vẹn, không chỉ là lòng thương cảm mà “yêu bằng việc làm”, và làm với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: “Hãy đi và làm như vậy”. 

Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ. Sở dĩ thầy Tư tế và thầy Lê vi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà xảy ra cho mình. Những nỗi sợ xem ra rất khôn ngoan và hợp lý, chỉ có điều chẳng có chút tình yêu nào. Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công tốn sức, tốn thời giờ, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn hay tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Yên thân là bất động, là sự sống bị tắt nghẽn, nên tình yêu không còn được chuyển thông.

Đứng trước nạn nhân, có lẽ câu hỏi mà hai vị giáo sĩ đặt ra là:“Nếu tôi dừng lại giúp đỡ người này, chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi?”. Nhưng xem ra người Samari đảo ngược lại câu hỏi:“Nếu tôi không dừng lại giúp đỡ người này, chuyện gì sẽ xảy ra cho anh ta?”. Hai câu hỏi với hai hướng khác nhau, nên cách thái hành động cũng khác nhau. Một câu hỏi hướng về sự an toàn của bản thân, còn một câu hỏi hướng đến lợi ích của tha nhân. Cách đặt câu hỏi hay cách đặt vấn đề cũng là một cách xác định tâm hồn và tính cách của một con người.

Ở cuối dụ ngôn, Đức Giêsu cũng đảo chiều câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?” thành câu: “Ai là người thân cận của kẻ bị cướp?” Với lối đặt câu hỏi này, mọi hàng rào ngăn cách và quan niệm lâu đời của người Do Thái bị phá đổ. Tôi không chỉ phục vụ cho người thân cận của tôi, mà tôi trở thành người thân cận với người tôi phục vụ, và người ấy trở thành người thân cận của tôi. Như thế ai cũng có thể thành người thân cận của tôi, và tôi cũng có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai, khi tôi dám yêu họ như chính mình.

Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Kahlil Gibran có một câu nói chí tình: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng xác định: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân”. Đó là ý nghĩa thật nhiệm mầu trong Bí tích Thánh Thể. Tham dự thánh lễ chẳng có ý nghĩa gì khi tôi không sống lòng nhân ái. Càng đi tìm bản thân, tôi càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc của mình, tôi càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, tôi càng vong thân.

Nỗi khát khao hạnh phúc của tôi chỉ được lấp đầy khi tôi biết coi trọng hạnh phúc của tha nhân. Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Muốn vậy, tôi hãy yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi tôi mới biết phải làm gì cho người anh em, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, tôi mới biết cách làm cho kẻ xa lạ trở nên người thân cận; kẻ thù địch trở nên người bạn tốt; chỉ cần tôi dám dừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em. Tôi cần lột bỏ “cái tôi”, cái “lớp vỏ” an toàn che chắn bản thân mình, để tình yêu Chúa có thể thấm nhập và làm nên con người mới.     

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Đường về quê hương sự sống đời đời,
là đường Chúa đã gọi mời con đi,
nhưng đi với trái tim mới tới đích,
bằng không sẽ dang dở cuộc hành trình.

Thầy Tư tế đã rẽ sang hướng khác,
để tìm đường yên ổn cho riêng mình,
thầy Lê-vi cũng đi theo như vậy,
vì họ không mang theo một trái tim,
chỉ mang theo của lễ ở bên ngoài,
nhưng Chúa chỉ đoái hoài lòng nhân hậu.

Người Sa-ma-ri lên đường không của lễ,
nhưng anh có trái tim để hiến dâng,
với tấm lòng yêu thương người lân cận,
nên anh cảm thấu được nỗi khổ đau,
của những ai đang gặp phải cơ cầu,
và cúi xuống để tận tình hầu hạ.

Con đường đến quê hương sự sống mới,
không khó không dài như phải lên non,
nhưng đường dài khó nhất đối với con,
là đường từ trái tim đến bàn tay.

Xin Chúa đặt tim con trên bàn tay,
thu ngắn lại cho con chặng đường dài,
để con không sợ gì những trở ngại,
mọi cái sẽ dễ lại trước khó khăn.

Xin cho con lên đường với trái tim:
suy nghĩ và nhìn đời với trái tim,
lắng nghe và hành động với trái tim,
một trái tim nên giống Chúa mỗi ngày. Amen

Lm. Thái Nguyên

(Nguồn: gpcantho.com)

______________________________

Suy niệm 4: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ

“Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” (Lc 10:37).

Quý ông bà và anh chị em thân mến,

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta nghe mẩu đối thoại giữa Đức Giê-su và một nhà thông luật (có lẽ là một kinh sư) về sự sống đời đời. Qua câu chuyện này, chúng ta có thể nhận thấy rằng điều kiện để có thể đạt tới sự sống đời đời không chỉ dừng lại ở một ý tưởng “mến Chúa yêu người” nhưng còn cần được thể hiện điều ấy bằng một hành động cụ thể.

Đức Giê-su vạch cho vị kinh sư này hiểu rõ bản chất của việc “mến Chúa yêu người” chính là lòng xót thương người, dù người ấy là ai và như thế nào. Câu chuyện dụ ngôn “Người Samarianô Nhân Lành” chính là lời khẳng định rõ ràng nhất cho chân lý này của Đức Giê-su.

Một số nhà chú giải Kinh Thánh giải thích cho chúng ta biết rằng hình ảnh người Samarianô nhân lành chính là hình ảnh về Đức Giê-su, Đấng cũng là mục tử nhân lành, dám hy sinh tính mạng cho đàn chiên. Chúng ta hãy chiêm ngắm hình ảnh của người Samarianô trong dụ ngôn “Người Samarianô Nhân Lành” để nhận ra hình ảnh của Thầy Giê-su và học với Người cách sống bằng hành động cụ thể giới luật yêu thương của Thầy Chí Thánh.

Trước hết, người Samarianô là một người biết xót thương người khác (c.33). Gặp người bị nạn, “ông ta lại gần” (c.34) chính là hình ảnh Ngôi Hai xuống thế làm người để gần gũi con người. Sau đó, ông ta “lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương của nạn nhân” là hành vi thiết lập các bí tích của Đức Giê-su, điển hình là Bí tích Xức dầu. Ông ta “đưa nạn nhân vào quán trọ” tựa như hình ảnh Chúa Chịu Nạn trao Đức Mẹ cho Thánh Gioan và Chúa Giê-su Phục Sinh trao sứ mạng chăm sóc con chiên cho Thánh Phê-rô cũng như cho Giáo Hội. Quán trọ là hình ảnh của một Hội Thánh luôn mở cửa cưu mang người hoạn nạn. “Ông trao cho chủ quán hai quan tiền” (c.35) là một số tiền lớn và có giá trị, tượng trưng cho việc Chúa Giê-su trao ban Thánh Thần và các năng quyền đặc thù cho Giáo Hội. Sau cùng, “ông hẹn ngày quay trở lại để tính toán sổ sách cho chủ quán” là hình ảnh chờ đợi ngày Chúa ngự đến lần thứ hai để phán xét người sống và kẻ chết.

Tóm lại, lời giảng dạy của Chúa Giê-su luôn sống động và chân thật vì nó được rút ra từ chính kinh nghiệm sâu xa và chân thật của Người, kinh nghiệm về một tình yêu trao hiến với trọn con tim chân thành tinh ròng.

Mẩu đối thoại giữa Đức Giê-su và vị kinh sư trong đoạn TM hôm nay khá quen thuộc. Tuy nhiên, khi chiêm ngắm Lời Chúa qua câu chuyện dụ ngôn “Người Samarianô Nhân Lành”, quý vị có cảm thấy Lời Chúa thách đố tâm can, làm tim nhói đau khi nhận thấy có đôi khi quý vị rất giống “thầy tư tế” và “thầy Lê-vi”, nghĩa là quý vị đặt công việc và lợi ích bản thân lên trên tính mạng con người, quý vị có thể nói về giới luật “mến Chúa yêu người” nhưng chưa thể sống giới luật ấy bằng hành động cụ thể? Quý vị có phải là tuýp người thích làm bạn với người giàu và có địa vị hơn là người nghèo và người bị gạt ra bên lề xã hội? Nhà thông luật hỏi Chúa: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10:29), còn Chúa thì hỏi ngược lại ông: “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” (Lc 10:36), chúng ta có thái độ sống khác với nhà thông luật không, tức là bản thân mình nên là người có lòng thương xót kẻ khác hơn là để người khác thương hại mình, bản thân mình nên là bạn và tìm đến người hoạn nạn hơn là để người khác phải làm bạn mình và tìm đến mình?

Quý vị hãy tâm sự với Chúa về những thách đố diễn ra trong tâm trí mình khi suy niệm bài TM hôm nay và xin Chúa ban cho quý vị có được một tình yêu tinh ròng như Chúa muốn, hoặc như “Người Samarianô Nhân Lành”, biết hạ mình phục vụ người khác với lòng trắc ẩn và tình yêu nhưng không!

Chúc quý vị cầu nguyện sốt sắng!

(Gp Kon Tum)

WGPKT(12/07/2025) KONTUM