Tin Vào Thiên Chúa Và Sự Sống Đời Sau (10.11.2019 – Chúa Nhật 32 TN, Năm C)

Blaise Pascal (1623-1662), nhà toán học cũng là triết gia thời danh đã nói đến người khôn ngoan luôn có niềm tin đời sau.

Có hai người tạm đặt tên là anh “A” và anh “B”. Anh “A” tin có Thiên Chúa, tin có đời sau. Anh “A” luôn cố gắng giữ và sống những điều Chúa dạy: Tôn thờ Thiên Chúa, anh dự lễ ngày Chúa nhật và yêu mến anh em hết lòng; hay giúp đỡ những người nghèo khó. Anh sống công bằng và bác ái. Khi lỗi phạm anh tìm cách thống hối ăn năn. Nhờ thế, gia đình anh hạnh phúc, anh được bà con trân trọng, quí mến. Và đặc biệt anh được bình an trong tâm hồn.

Anh “B” không tin có Thiên Chúa, không tin có đời sau. Anh “B” thường sống buông thả, giả hình. Anh vi phạm lỗi công bằng. Anh cố che đậy những điều sai quấy, miễn sao pháp luật không biết là được, vì anh chỉ sợ pháp luật. Kết quả gia đình mất hạnh phúc; dân làng chê bai; mọi người chỉ sợ anh chứ không trọng anh! Anh không có sự bình an thực sự trong tâm hồn.

Pascal đưa ra hai giả thuyết về Thiên Chúa và đời sau.

Giả thuyết thứ nhất: Không có Thiên Chúa và cũng không có đời sau. Nếu không có Thiên Chúa và đời sau thì ngay ở đời này anh “A” đã hơn anh “B” là gia đình hạnh phúc, mọi người quí mến. Anh “A” được bình an trong tâm hồn. Còn anh “B” gia đình mất hạnh phúc, dân làng chê cười. Anh không có bình an trong tâm hồn. Còn sau khi chết cả anh “A” và “B” huề nhau.

Giả thuyết thứ hai: Có Thiên Chúa và có đời sau. Có Thiên Chúa và có đời sau thì anh “A” được hưởng trọn ven; trong lúc anh “B” mất trắng không được gì.

Pascal kết luận: Khi ta tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau ta được cả đời nay lẫn đời sau, chỉ chịu thiệt đôi chút về chức quyền, danh vọng. Nếu ta không tin vào Thiên Chúa ta mất cả đời này lẫn đời sau. Như thế, người tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau là người khôn ngoan; người không tin vào Thiên Chúa là những người vô cùng dại dột.

Từ rất xa xưa, người ta không coi chết là hết: người chết vẫn có một nơi để đến, để sống tiếp một cách nào đó, “một cõi đi về”. Với Trung quốc, nơi ấy được gọi là Cửu tuyền, Hoàng tuyền. Với Do thái, thì đây là Sheol…Vì thế ngôn ngữ mọi thời đã gọi cái chết bằng những ngôn từ nhẹ nhàng hơn như “khuất núi”, “ra đi”, “mất”, “về nơi chín suối”, “quy tiên”, “chầu trời”, “qua đời”… Từ “qua đời” thật ý nghĩa, người đã chết bước từ đời tạm này để đi đến một đời sống mới, đời sống vĩnh hằng bên Thiên Chúa.

Ðối với Ki-tô giáo, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có ? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi (Rm 5,12; 6,23). Nhưng Thiên Chúa “vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16) và lời tuyên bố của Chúa Giê-su trước khi làm cho La-da-rô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Lời mặc khải này có nhiều người tin vào Chúa, nhưng cũng không ít người nghi ngờ, không tin.

Bài Phúc Âm hôm nay kể về phái Xa-đốc không tin có sự sống lại, họ đặt ra những vấn nạn vô lý để chất vấn Chúa Giê-su. Họ trích sách Ðệ nhị luật 25, 5-6 để hỏi Người: Nhà kia có 7 anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Mô-sê, người em phải lấy chị goá để có con nối dõi, và cả 7 anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị goá đó vợ sẽ là của ai ?. Họ đưa ra ví dụ mà chẳng thể xảy ra trong thực tế. Trong thế giới mai sau, bà vợ thuộc về ai trong số 7 ông chồng? Chẳng lẽ 7 ông đánh nhau để dành 1 bà trên thiên đàng? Kiểu lý luận hàm ẩn một quan niệm, thế giới mai sau cũng như hiện tại, nối dài hiện tại. Người Việt Nam cũng vậy, thói quen đốt vàng mã, đốt đôla, đốt xe honda, đốt nhà lầu…cho người cõi âm xài…Người ta tin rằng thế giới mai sau cũng giống như thế giới mình đang sống cho nên người đã chết cũng cần xe, cần tiền…

Chúa Giê-su trả lời với hai nét độc đáo: thế giới mai sau là một thế giới hoàn toàn khác, hoàn toàn được biến đổi, và sự sống mới hoàn toàn được bắt đầu từ hôm nay.

  1. Ðời sau khác đời này.

Người ta không lấy vợ gả chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, chỉ lo phụng sự và ca ngợi Chúa. Ðời sau không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì: “Ðức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống”.

Qua mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh sắp tới, Ðức Giê-su sẽ hoàn tất mạc khải này. Ðức Giê-su đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Ðấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Ki-tô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết (1 Cr 15, 14). Thánh Phê-rô đã nói một cách sâu sắc: “Tội lỗi của chúng ta, chính Ðức Ki-tô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính” (1 Pr 2, 24).

Vì Ðức Giê-su đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng, nên Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người. Ðức Ki-tô đã trở nên con đường giao hoà và Thập Giá Ðức Ki-tô đã trở thành như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người. Yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Ðức Giê-su không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Ki-tô đã được Thần Khí hoá (Rm 8,11; 1 Pr 3,18), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa (Rm 6,10).Theo thánh Phaolô, cuộc sống đời sau mới là đích điểm mà mọi tạo vật nhắm tới: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt phải chịu vậy. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến nay, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,19-23). Chúng ta rên siết vì cuộc sống hiện tại đầy khổ ải. Chúng ta mong chờ cuộc sống đích thực ở mai sau. Đời sống này là thời kỳ thai nghén. Ta phải chịu đau đớn để sinh vào đời sau.

  • Đời sau bắt đầu từ đời này.

Sự sống đời sau viên mãn, nhưng không phải ai cũng vào được. Chỉ có những người được xét là xứng đáng mới được vào. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa đã nói tới việc tuyển chọn này. Chúa sẽ loại chiên ra khỏi dê, lúa tốt ra khỏi cỏ dại, cá tốt ra khỏi cá xấu. Tiêu chuẩn để chọn lựa là Tám mối phúc, nhất là giới răn bác ái yêu thương. Đời sau, người ta sẽ giống như thiên thần. Đời sống trên trời sẽ không có gì giống với đời sống dưới đất. Sẽ không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống. Sẽ chẳng có lấy vợ lấy chồng, sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa. Mỗi người trở thành con Thiên Chúa, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Bài đọc 1 kể chuyện: Bà mẹ và bảy người con tin có sự sống đời sau, và họ đã làm chứng cho niềm tin ấy bằng cách dám hy sinh mạng sống đời này. Chúng ta tin có sự sống đời sau, nên trong đời sống thường ngày mỗi người không chỉ tìm kiếm những giá trị vật chất cho cuộc sống, mà còn tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức để bảo đảm cho cuộc sống đời sau. Đó là hết lòng kính mến Chúa qua việc học hỏi Lời Chúa, siêng năng tham dự Thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích. Đó còn là hết lòng sống công bằng, bác ái yêu thương mọi người, và nỗ lực xa lánh mọi tội lỗi làm mất lòng Chúa.

  • Tin và sống trong ân tình của Chúa Ki-tô

Niềm tin vào Ðức Giê-su, Ðấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Khi trái tim một người Ki-tô hữu ngừng đập thì chuông Nhà Thờ vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn một người đã được Chúa gọi về. Nghe chuông báo tử, mọi người đến tang gia để thăm viếng, phân ưu, đọc kinh cầu nguyện, tham dự nghi thức tẩm liệm, cùng đưa người chết đến Nhà Thờ. Linh cửu được đặt ngay trước Nhà Tạm của Chúa Giê-su. Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho sự sống lại của Chúa và của những ai theo Người được thắp sáng lên đặt cạnh quan tài. Thánh Lễ được cử hành để hiệp thông cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội trân trọng với cả xác chết. Ðại diện cho Giáo Hội là Linh mục tiễn đưa người quá cố từ Nhà Thờ đến Ðất Thánh, làm phép huyệt để thánh hoá nơi người chết an nghỉ và nói lên niềm hy vọng tuyệt vời: “Chúng ta gởi thân xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại gặp nhau trên Thiên Ðàng“.

Sự chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô không những đã chuộc lại được cho con người những gì nó đã mất vì tội lỗi, nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Bởi vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa và con người được nối lại và một tương quan mới được thiết lập, đó là tương quan Cha Con. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Ki-tô, con người được tha thứ, được gội rửa sạch tội lỗi, khỏi án chết đời đời và trở nên con cái Thiên Chúa. Từ nay con người được gọi Thiên Chúa là Áp-ba, Cha ơi (Rm 8, 15).

Tin và sống trong ân tình của Chúa Ki-tô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11,26; 1Ga 3,14). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay. Niềm tin đó thôi thúc chúng ta sống theo Tin Mừng Chúa Giê-su. Niềm hy vọng ấy thôi thúc chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ, làm việc lành phúc đức nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho những người thân yêu và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.

Thiên Chúa dựng nên con người để con người được hưởng hạnh phúc đời này và cả đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú chóng tàn mà quên đi cùng đích cuộc đời là gặp được Chúa. Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Người.

Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa (Thánh Augustinô). Amen

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

WGPKT(09/11/2019) KONTUM