Sau khi vào Đất Hứa, dân Chúa mừng lễ Vượt Qua.
Bài trích sách Giô-suê.
9a Sau khi dân Ít-ra-en vào Đất Hứa, Đức Chúa phán với ông Giô-suê : “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập.”
10 Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. 11 Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. 12 Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
2Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.3Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
4Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa,
ta đồng thanh tán tụng danh Người.5Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
6Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.7Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.
Đ.Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
Thiên Chúa đã cho chúng ta được hoà giải với Người, nhờ Đức Ki-tô.
Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
17 Thưa anh em, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. 18 Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. 19 Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. 20 Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. 21 Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.
Tôi sẽ trỗi dậy, trở về với cha tôi và thưa người rằng : Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha.

Em con đây đã chết mà nay lại sống.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
1 Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau : “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này :
11 “Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng : ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.’ Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
14 “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng ; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. 17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ : ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! 18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người : ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra, ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để. 21 Bấy giờ người con nói rằng : ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa …’ 22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng : ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.’ Và họ bắt đầu ăn mừng.
25 “Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27 Người ấy trả lời : ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.’ 28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha : ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !’
31 “Nhưng người cha nói với anh ta : ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy’.”
(Nguồn: ktcgkpv.org)
—————————-
Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Chúa nhật thứ bốn Mùa Chay là điểm giữa của hành trình Mùa Chay, Phụng vụ khích lệ chúng ta: nếu có trải qua những khổ chế hy sinh của Mùa Chay, là vì chúng ta đang hướng về nhà mình, về với Cha, Đấng nhân hậu hằng yêu thương và chờ đợi chúng ta trở về. Quả thực, hành trình Mùa Chay là hành trình trở về, dù phải trải qua hy sinh, nhưng luôn đong đầy niềm vui và hy vọng. Cũng vì lẽ đó mà luật Phụng vụ cho phép các linh mục có thể mặc lễ phục màu hồng trong Chúa nhật này, vì màu hồng biểu thị cho niềm vui và hy vọng. Lễ phục màu hồng như dấu hiệu của niềm vui đi kèm với lời hứa về lễ Phục sinh. Truyền thống cũng gọi Chúa nhật thứ bốn Mùa Chay là Chúa nhật “Laetare”, tiếng La-tinh có nghĩa là “vui mừng”.
Niềm vui trở về trước hết được diễn tả trong Bài đọc I trích sách Giô-suê. Dân Do Thái sau bốn mươi năm lang thang trong sa mạc, nay đã trở về Ca-na-an, mảnh đất mà Thiên Chúa đã hứa cho các Tổ phụ. Gọi là “trở về” vì đây chính là nơi ông Áp-ra-ham và vợ mình là bà Sa-ra đã sống và an nghỉ. Trở về với Ca-na-an, người Do Thái về đất tổ của mình. Chính Thiên Chúa ban cho họ đất này. Họ không còn ăn những sản phẩm nhàm chán trong cuộc lữ hành, nhưng bắt đầu làm nhà định cư và được hưởng những thổ sản của địa phương. Niềm vui của Dân Chúa thật tràn trề khi họ trở về đất hứa.
Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca là một trong những tuyệt tác văn chương của Kinh Thánh. Dụ ngôn ấy vừa nói về lòng nhân hậu bao dung của người cha, vừa nêu bật niềm vui hân hoan của người con đã có thời đi hoang. Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mang ý nghĩa đặc biệt trong Năm Thánh Hy Vọng 2025 này. Từng chi tiết của câu chuyện có thể tìm thấy trong hoàn cảnh cuộc đời của mỗi cá nhân chúng ta. Nói cách khác, mỗi người chúng ta có thể nhận thấy chính mình trong câu chuyện này.
Có thể chúng ta là người con thứ đã có thời lầm lỗi, nay cảm nhận được hậu quả của tội lỗi cũng như sự sa vắng tình thương, nên trỗi dậy để quyết tâm trở về với cha mình. Câu nói của người con thứ: “Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha, và thưa với người rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha..”. Phạm tội trước hết là đắc tội với Trời, với Thiên Chúa. Vì Ngài là Đấng dựng nên chúng ta, đồng thời dạy chúng ta sống tốt lành. Phạm tội cũng là đắc tội với những người thân và anh chị em đồng loại, vì tội như một thứ bệnh truyền nhiễm, gây ảnh hưởng tiêu cực nơi môi trường sống và tác hại đến những người xung quanh. Câu tự nhủ của người con thứ nói lên tình liên đới của con người do những hành động tốt hoặc xấu của một thành viên trong gia đình và xã hội.
Có thể chúng ta là người con cả. Quanh năm ngày tháng anh vẫn ở với cha mình. Anh được coi là người hiếu thảo, tận tâm chăm lo giúp đỡ cha trong lúc tuổi già. Nhưng nếu anh hiếu thảo với cha, thì lại ghen tương và cố chấp đối với đứa em ruột thịt của mình. Khi người em trở về, ai cũng vui mừng phấn khởi thì anh lại buồn. Có thể anh buồn vì người em đã làm cho gia đình khốn khổ, đó là cái buồn do sự cố chấp. Cũng có thể anh buồn vì người em trở về sẽ đòi chia gia tài, đó là nỗi buồn do tham lam. Dù vì lý do nào, người cha cũng không chấp nhận. Ông luôn yêu thương cả hai đứa, đứa vẫn chăm sóc ông bấy lâu nay cũng như đứa bỏ nhà ra đi rồi đến lúc phá sản, vì đơn giản ông là NGƯỜI CHA.
Nhân vật chính của dụ ngôn là NGƯỜI CHA. Ông là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giê-su kể dụ ngôn này sau khi những người Pha-ri-siêu và kinh sư xầm xì bàn tán vì thấy những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa và được Người đón tiếp. Đối lại, Chúa Giê-su giảng một chuỗi ba dụ ngôn, gồm dụ ngôn con chiên bị mất; dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất; và dụ ngôn người cha nhân hậu. Thiên Chúa là Cha của những người Pha-ri-siêu, của những người kinh sư và cũng là Cha của những người thu thuế và người tội lỗi. Người không nỡ bỏ một ai, như lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Ta sẽ không nhớ lại mọi tội ác nó (kẻ gian ác) đã phạm: nó sẽ sống nhờ việc công chính mà nó đã thực hành! Chúa là Thiên Chúa phán: Có phải Ta muốn kẻ gian ác phải chết, chớ không muốn nó bỏ đàng tội lỗi và được sống ư?” (Ed 18,22-23).
Khi cảm nhận được lòng nhân hậu bao dung của Thiên Chúa, chúng ta hãy trỗi dậy và vững tâm trở về, dù tội lỗi đến đâu. Thánh Phao-lô khuyên chúng ta: “Ai ở trong Đức Ki-tô, đều là tụ tạo mới!”. Nếu chúng ta tự tin và can đảm trở về với Chúa, là vì chúng ta vừa xác tín vào lòng nhân hậu của Ngài, vừa cậy nhờ vào Đức Giê-su, vì “trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Ngài” (Bài đọc II).
Thiên Chúa là Cha, đang giang rộng cánh tay đón chờ các con cái trở về. Xin cho chúng ta được hưởng niềm vui của sự trở về, để nhờ đó chúng ta được vững tin và phó thác, tiếp tục bước đi trong hành trình hy vọng.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
—————————
Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh
ĐIỀU MỚI MẺ
Các bài đọc phụng vụ hôm nay đặt chúng ta trong bầu khí của mùa xuân mới, mùa phát sinh sự sống mới. Người Do thái sau 40 năm lang thang trong sa mạc, nay vào đất hứa, tại Ghin-gan họ cử hành lễ kỷ niệm Vượt Qua biển đỏ, kỷ niệm ngày giải phóng khỏi đất nô lệ Ai cập, ngày vào vùng tự do, ăn sản phẩm do bàn tay lao động sản xuất chứ không còn ăn man-na nữa (x. Bài Đọc 1. Gs 5, 9a.10-12).
Bài đọc 2 nói đến thụ tạo mới đối với những ai ở trong Chúa Kitô, họ được hoà giải với Thiên Chúa, được trở nên công chính (2Cr 5, 17-21). Bài Tin mừng (Lc 15, 1-3.11-32) nói đến lòng nhân hậu của người cha chậm bất bình và rất mực yêu thương con, cho dù là đứa con có quá khứ hư hỏng, ông vẫn tha thứ và phục hồi chức vị làm con khi nó đi hoang trở về: “Em con đây đã chết nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (c.32). Các bài đọc đồng loạt nói lên bầu khí mới, bầu khí sống lại mà trong ba tuần nữa chúng ta mới thực sự bước vào. Cả ba bài đều nói đến việc cắt đứt dứt khoát với quá khứ tội lỗi, đi vào sự sống mới.
Chúng ta sẽ làm cho bài Tin mừng nghèo nàn đi khi chỉ dừng lại nơi khía cạnh luân lý của người thanh niên, anh ta muốn tự ý kiến tạo đời mình theo sở thích ngông cuồng, đòi chia gia tài và bỏ nhà ra đi bất chấp gia đình. Chỉ sau khi bị khuất phục bởi những hoàn cảnh và thất bại trắng tay, anh ta mới hồi tâm mà trở về với cha già, anh ta hành động theo ý riêng mà quên đi sự tốt lành của người cha. Ông bố “có lý” khi tôn trọng tự do của người con và cho con mình toại nguyện làm theo tính ngông cuồng của tuổi trẻ ?
Sách Giôsuê soi sáng chúng ta về sự trưởng thành tự lập, Sách nói đến lễ Vượt Qua tại Ghin-Gan, một nơi thánh mà người Do thái cử hành để ghi dấu ấn việc kết thúc biến cố Xuất hành, nghĩa là hoan hỉ chấm dứt thời kỳ sa mạc, nơi thiếu thốn nhiều mặt, mà man-na là duy nhất thực phẩm hằng ngay. Thời điểm chấm dứt đời sống trong sa mạc, nay tìm gặp được mối tương quan mới với Thiên Chúa, như thể họ bước đi từ tuổi thiếu niên hoàn toàn lệ thuộc cha mẹ đến tuổi trưởng thành tự lập.
Họ ăn những sản phẩm do bàn tay lao động sản xuất, và không còn ăn man-na nữa. Thay đổi thức ăn như một biến chuyển thay đổi tận căn cuộc sống, thay đổi quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Ítraen, họ đi từ thời kỳ quản giáo sang thời kỳ ý thức trưởng thành. Từ trong sa mạc đói khát và trần trụi họ tìm gặp mối tương quan mới với Thiên Chúa, một tương quan ổn định “định canh định cư”. Một sự sống mới phất lên nơi dân Do thái, một giai đoạn mới.
Tương tự như vậy, hình ảnh nầy cho ta hiểu tâm trạng của người thanh niên đi hoang trở về: từ sa mạc cuộc đời cay đắng về lại với mái ấm gia đình. Và nỗi niềm hân hoan của người cha đón con về, ông đã không ngớt yêu thương con, tôn trọng ý muốn tự do của con, ông đã mở cửa cho con đi, nhưng không bao giờ ông ngừng hy vọng đón con về. Ông mở lối đi ra, nhưng cũng trù bị đường về cho con, cửa nhà ông luôn rộng mở đón chờ con. Cũng vậy Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do và quyết định của con người.
Cái nhân từ của ông là ở chỗ đó. Không áp đặt, không chế tài, nhưng luôn luôn chờ đợi con với vòng tay ôm ấp tha thứ. Ông thật tế nhị khi chưa nghe hết lời thú tội của con, ông đã tha thứ cho con, không những thế ông lại phục hồi nhân phẩm cho con: xỏ nhẫn quý, mặc áo mới, đi giầy sang, mở tiệc rượu với bê béo có liên hoan ca hát nhảy múa. Chiếc nhẫn chỉ sự cao quý, y phục chỉ chức phận xã hội , đi giầy chỉ sự tự do đi lại, thời đó chỉ người tự do mới được đi giầy dép, tiệc béo và ca hát chỉ sự hân hoan đón chào và chúc mừng. Như thế người con không chỉ được tha thứ mà còn được phục hồi nhân phẩm, phục hồi tư cách làm con.
Người cha đón tiếp long trọng con, như Thiên Chúa dành cho người tội lỗi thống hối trở về. Khó tin quá! Nơi người con được phục hồi chức phận, chúng ta thấy được hình ảnh của Đức Giêsu là Người Con của Cha, có nhà đạo đức ví Đức Giêsu là người con hoang trở về, sau khi đã ra đi theo tiếng gọi yêu thương nhân loại, tiêu sạch những gì cha đã cho. Người Con tự huỷ mình ra không, được Cha ôm ấp tôn vinh. Như thế nơi Đức Giêsu hình ảnh người cha nhân từ ôm con và người con được cha ôm ấp, được diễn tả trọn vẹn. Còn thánh Phaolô làm vang vọng lại dụ ngôn nầy khi viết: thế giới cũ đã qua đi và thế giới mới đã đến (x. Bài đọc 2. 2Cr 5, 17-21). Đi vào thế giới mới là do lòng tốt hoàn toàn và nhưng không của người cha, chứ không phải là công trạng gì của con.
Lạy Chúa Giêsu, người con hoang đó không ai xa lạ, con đã gặp, con đã tiếp xúc, con đã ý thức có khi đó là chính con! Xin cho con đừng bao giờ thất vọng vì tội lỗi của mình nhưng tin cậy vào lòng nhân từ hay tha thứ của Chúa. “Thôi đứng dậy, đi về cùng Cha” trong mùa Chay thánh . Amen
Lm Luy Nguyễn Quang Vinh, Giáo xứ Đức An, Pleiku
___________________________________
Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên
TRỞ VỀ
Suy niệm
Những người biệt phái và kinh sư vẫn coi khinh những người thu thuế và tội lỗi. khi thấy Chúa Giêsu lui tới với những hạng người đó thì họ xầm xì khó chịu. Trước cái nhìn ngặt nghèo của nhóm biệt phái và luật sĩ, Đức Giêsu nêu lên dụ ngôn về Thiên Chúa như “Người cha nhân hậu”. Đó là người cha chấp nhận chia gia tài để người con thứ ra đi, dù biết nó sẽ rơi vào cảnh sa đà, trụy lạc, nhưng tin nó sẽ quay về sau khi vỡ mộng. Thế nên người cha từng ngày mong nó sẽ trở về, và chuẩn bị mọi thứ để đón rước. Thông thường, cha mẹ chỉ chuẩn bị đón rước và ăn mừng đứa con sắp thành tài, sắp thăng quan tiến chức; chứ ai lại mừng cho một thằng nghịch tử; một đứa con bất hiếu bao giờ!
Đúng như người cha đã dự đoán, sau một thời gian “sống phóng đãng, phung phí hết tài sản”, rơi vào cảnh cùng cực, người con đã hồi tâm chuyển ý, thấy mình quá đắc tội với cha nên đã quay về. Tưởng đâu cha sẽ trách mắng, nghiêm phạt, ai ngờ khi vừa thấy bóng dáng con từ xa, thì ông động lòng thương, chạy ra ôm chầm lấy anh và hôn lấy hôn để. Lòng yêu thương và chờ đợi từng ngày khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng. Ông thật là một người cha phung phí vì đã chia gia tài cho một đứa con còn non lòng trẻ dạ. Và giờ đây ông lại đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng cho con. Hơn nữa còn vui mừng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát để ăn mừng. Một cuộc đón tiếp quá nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Ông đã phung phí tình yêu thương cách quá độ đến mức vô lý. Đúng là “Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không hề biết đến.” (Pascal).
Người anh cả đi làm về thấy cảnh tượng như vậy liền nổi giận, không chịu vào nhà, nặng lời trách móc cha già, vì hành xử như vậy là bất công với anh ta. Anh cho cha thấy bao nhiêu công lao của mình đối với cha mà chưa từng được khen thưởng, đang khi “thằng con của cha đó”, nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì lại ăn mừng. Anh không thể vui với cha, nên càng không thể vui với em. Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm. Anh đối chọi với cha và không muốn vào nhà để gặp em. Anh nghĩ cha đã sai lầm khi thưởng kẻ đáng phạt mà không thưởng người đáng công.
Người cha phải ra tận cổng phân trần và năn nỉ anh ta vào nhà chung vui với ông “vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Nhưng xem ra người anh không chấp nhận cho em trở về, vì sợ chiếm mất những gì thuộc về mình. Người cha đã khẳng định với cậu rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31). Hoá ra cả hai người con khác nhau về cách sống bên ngoài nhưng lại rất giống nhau về tâm thế bên trong, vì cả hai đều ở ngoài trái tim của cha, người con thứ vô tình, mà người con cả cũng vô tâm, không cảm nhận được tình yêu thương của cha mà chỉ muốn sống thỏa mãn theo ý riêng mình. Cả hai đều có lối sống như người làm công chứ không phải làm con. Người anh xem ra còn nặng tội hơn em, vì không chấp nhận cha mà cũng không chấp nhận em. Người anh cả phải chăng đại diện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Người cha có hai đứa con thật éo le. Người con thứ như tượng trưng cho lối sống của những kẻ đang chạy theo tiền bạc và của cải vật chất, đang tôn thờ ngẫu tượng, đang sống trong ảo tưởng về cuộc đời này. Đó cũng là những người đang mất dần đức tin, không còn sống hiệp thông trong Giáo hội; là những người trẻ bỏ gia đình đi bụi đời; là những thanh niên đang chạy theo tiền tài danh vọng; là những thiếu niên đang nghiện ngập và lo tìm thỏa mãn đam mê dục vọng.
Phải chăng người anh cả cũng tượng trưng cho những người giữ đạo để cho mình được an thân yên vị, chứ không vì tình yêu mến. Không có tình yêu với Chúa nên cũng chẳng có tình yêu với nhau, nên không gần gũi, không thân thiện, không chia sẻ, không cảm thông, và càng không muốn tha thứ. Người con cả phải chăng là những tín hữu xưng mình là đạo gốc nhưng đã tróc gốc mà không hay biết. Đó là những kẻ lười biếng trong việc thờ phượng Chúa, đầy tự ái, kiêu căng, ích kỷ?
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ngài yêu chúng ta bằng một tình yêu mà lý trí không tài nào hiểu được. Hãy để cho tim mình ra mềm mại và tan chảy trước tình yêu cao siêu đó. Hãy vào hưởng niềm vui của một đứa con hiếu thảo với Cha và đầy tình huynh đệ với nhau.
Cầu nguyện
Lạy Cha là Thiên Chúa tình yêu!
dù đời con đã bao lần sa lạc,
nhưng Cha vẫn nâng đỡ và thứ tha,
con cảm thấy bước chân Cha vội vã,
khi đón con đã sa ngã trở về.
Cha chẳng nề khi thân con ô uế,
giang tay ôm với tình thương tràn trề,
vẫn như xưa con từng được yêu quí,
nhưng dại dột con đã bỏ ra đi.
Tình thương Cha chẳng thể nào sánh ví,
thế mà con có những lần ganh tị,
khi có người bị sa lạc trở về,
con lại tìm mọi cách để khinh chê.
Con quên rằng tình Cha luôn cao cả,
mỗi người có một chỗ trong tim Cha,
Cha yêu con chỉ vì con là con,
cho dù con ngoan hiền hay hư hỏng.
Xem ra con cũng như người anh cả,
ở trong nhà nhưng lòng đã lạc xa,
chưa hiểu nổi mối tình Cha sâu thẳm,
nên chỉ nhắm công bằng và hợp lý,
mà không sống với tất cả trái tim,
quả thật con đã thấy mình thâm hiểm.
Xin cho con một trái tim cháy sáng,
để biết sống tình yêu Cha vô hạn,
một trái tim tha thứ rất dịu dàng,
cách ứng xử nhẹ nhàng và thanh thoát,
không sợ gì những lo toan mất mát,
để mọi người được vui sống bình an. Amen.
Lm. Thái Nguyên
______________________________
Suy niệm 4: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ