Ghi chú tín lý về một số vấn đề liên quan đến việc tham gia của người Công giáo vào đời sống chính trị
BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN
GHI CHÚ TÍN LÝ
về một số vấn đề liên quan
đến việc tham gia của người Công giáo vào đời sống chính trị
Đón nhận ý kiến của Hội đồng Giáo hoàng về Giáo
dân, Bộ Giáo lý Đức tin quyết định rằng việc ấn hành tài liệu Ghi chú
Tín lý về một số vấn đề liên quan đến việc tham gia của người Công giáo vào đời
sống chính trị là điều cần thiết. Bản ghi chú này nhắm vào các Giám
mục của Hội thánh Công giáo và một cách cụ thể, cũng nhắm đến các chính trị gia
Công giáo cũng như toàn thể các thành phần tín hữu được mời gọi tham gia vào
đời sống chính trị của những xã hội dân chủ.
I. Một giáo huấn không thay đổi
1. Sự dấn thân của các Ki-tô hữu trên thế giới tìm được những cách diễn tả khác
nhau trong suốt 2000 năm qua. Một trong những cách diễn tả ấy là việc tham gia
của các Ki-tô hữu vào đời sống chính trị: như một cây bút thời Hội thánh tiên
khởi viết, các Ki-tô hữu “đóng vai trò trọn vẹn của họ như những người công
dân.”[1] Trong số các thánh, Hội thánh tôn kính nhiều vị thánh nam nữ đã phục
vụ Thiên Chúa qua việc quảng đại dấn thân vào lãnh vực chính trị và quyền bính.
Trong số này, thánh Thomas More, vị được tuyên phong làm quan thầy của các
chính khách và chính trị gia, đã làm chứng bằng việc đổ máu đào vì “phẩm giá
bất khả chuyển đổi của lương tâm con người.”[2] Mặc dù phải chịu nhiều hình
thức áp lực tâm lý khác nhau, thánh nhân vẫn nhất quyết không nhượng bộ, không
bao giờ từ bỏ “lòng tín trung kiên vững dành cho quyền bính và thể chế hợp
pháp” vốn là điều làm ngài nổi trội; bằng chính đời sống và cái chết của mình,
ngài đã dạy rằng “không gì có thể tách con người khỏi Thiên Chúa, cũng như
không thể tách chính trị khỏi luân lý được.”[3]
Điều đáng khen là trong các xã hội dân chủ hiện nay, mọi người đều được trực
tiếp tham gia vào cơ cấu chính trị trong bầu khí tự do thực sự.[4] Những xã hội
như thế mời gọi các hình thức tham gia mới và trọn vẹn hơn của công dân là
Ki-tô hữu hay người lương vào đời sống cộng đồng. Thật ra, tất cả mọi người đều
có thể chung tay để phát triển những giải pháp chính trị và chọn lựa pháp lý mà
theo họ sẽ đem lại lợi ích chung bằng việc bỏ phiếu bầu chọn những nhà lập pháp
và các viên chức nhà nước, cũng như bằng những phương thế khác.[5] Đời sống của
một nền dân chủ không thể phong phú nếu không có sự tham gia tích cực, có trách
nhiệm và quảng đại của mọi người, “dẫu cho sự đa dạng và bổ trợ nhau về các
hình thức, mức độ, công việc cũng như trách nhiệm.”[6]
Bằng việc làm tròn nghĩa vụ công dân phù hợp với những giá trị “được hướng dẫn
bởi lương tâm Ki-tô giáo”[7], giáo dân thực thi những bổn phận cá nhân về việc
rao truyền những giá trị Ki-tô giáo vào trật tự thế tục, trong khi vẫn tôn
trọng bản chất và quyền tự trị chính đáng của trật tự đó[8], đồng thời cộng tác
với các công dân khác theo khả năng chuyên môn và trách nhiệm của họ.[9] Hoa
trái của giáo huấn nền tảng từ Công Đồng Vatican II chính là “tín hữu không bao
giờ phải bỏ việc tham gia của họ vào ‘đời sống cộng đồng’, tức là trong nhiều
lãnh vực khác nhau như kinh tế, xã hội, lập pháp, hành chính và văn hóa nhằm cổ
võ lợi ích chung một cách hữu cơ và có tổ chức.”[10]Điều này cần bao gồm việc
đẩy mạnh và bảo vệ những điều tốt lành như trật tự cộng đồng và hòa bình, tự do
và bình đẳng, tôn trọng sự sống con người và môi sinh, công bình và đoàn kết.
Bản Ghi Chú này không nhằm tìm cách trình bày toàn bộ giáo huấn của Hội Thánh
về vấn đề này, vốn được tóm tắt cơ bản trong sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo,
nhưng chỉ nhằm nhắc lại một số nguyên tắc phù hợp với lương tâm Ki-tô giáo,
điều gợi hứng cho việc tham gia xã hội và chính trị của người Công giáo trong những
nước dân chủ.[11] Sự xuất hiện những điều mơ hồ hay những quan điểm đáng ngờ
trong thời gian gần đây, thường là do áp lực của các sự kiện trên thế giới, đã
làm Giáo hội cảm thấy cần phải làm sáng tỏ một vài yếu tố quan trọng trong giáo
huấn của Hội thánh về lãnh vực này.
II. Những điểm chính yếu trong cuộc tranh luận mang tính chính trị và văn
hóa hiện nay
2. Xã hội dân sự ngày nay đang trải qua một tiến trình văn hóa phức tạp khi
sống trong thời kỳ cuối của một kỷ nguyên mang theo nó thời gian đầy biến động
của việc đối diện với điều mới mẻ. Những thành quả vĩ đại đạt được ở thời đại
chúng ta minh chứng cho tiến trình đi lên của con người trong việc đạt được
những điều kiện sống thích hợp hơn với nhân phẩm. Sự triển nở về mặt trách
nhiệm hướng đến các quốc gia đang phát triển chắc chắn là một dấu chỉ quan
trọng, chứng tỏ có sự nhạy cảm hơn với lợi ích chung. Tuy nhiên, người ta đồng
thời không thể nhắm mắt trước những nguy hại thực sự mà một số khuynh hướng
trong xã hội đang đẩy mạnh qua việc lập pháp, đồng thời người ta cũng không thể
phớt lờ những hệ quả của điều này đối với các thế hệ tương lai.
Có một loại thuyết tương đối về văn hóa tồn tại trong thời đại hôm nay, biểu
hiện rõ nhất trong việc khái niệm hóa và bảo vệ một chủ thuyết đa nguyên về đạo
đức vốn chấp nhận việc sa sút và tan rã của lý trí và các nguyên lý của luật
luân lý tự nhiên. Hơn nữa, chúng ta không phải là hiếm những lần được nghe một
quan điểm diễn tả trong bầu khí cộng đồng rằng thuyết đa nguyên về đạo đức như
thế là điều kiện rất cần thiết cho nền dân chủ.[12] Hậu quả là các công dân cho
rằng họ có thể toàn quyền tự quyết trên các lựa chọn luân lý của họ, và các nhà
lập pháp khăng khăng rằng họ đang tôn trọng sự tự do chọn lựa bằng cách ban
hành những điều luật mà theo đó nó coi nhẹ những nguyên tắc đạo đức luân lý tự
nhiên và nhượng bộ nền văn hóa và xu hướng đạo đức mau qua,[13] như thể mọi
quan điểm về lối sống đều có giá trị ngang nhau. Đồng thời, giá trị của sự bao
dung thường được nại đến cách ranh ma khi mà một lượng lớn công dân, trong đó
có cả người Công giáo, bị đòi buộc không được đóng góp cho xã hội và đời sống
chính trị, ngang qua những phương tiện lập pháp mà mọi người trong xã hội dân
chủ đều có thể có, dựa trên sự hiểu biết riêng tư của họ về con người và công
ích chung. Lịch sử thế kỷ 20 chỉ ra rằng những công dân làm đúng là những người
nhận ra sự sai lầm của thuyết tương đối và cũng sai lầm như thế đối với ghi
nhận cho rằng không có luật luân lý nào bắt nguồn từ bản chất tự nhiên của con
người, vốn có tồn tại và phải điều khiển sự hiểu biết của chúng ta về con
người, lợi ích chung và quốc gia.
3. Dĩ nhiên là một thuyết tương đối như thế không liên hệ gì đến tự do chính
đáng của các công dân là Ki-tô hữu để lựa chọn giữa các quan điểm chính trị
khác nhau những ý kiến phù hợp với đức tin và quy luật luân lý tự nhiên, và để
chọn lựa theo những tiêu chuẩn riêng của mình những điều gì là phù hợp nhất đối
với những nhu cầu của lợi ích chung. Tự do chính trị không phải, và không thể,
được dựa trên tư tưởng tương đối cho rằng mọi quan niệm về điều tốt cho con
người đều có cùng giá trị, nhưng phải dựa trên thực tế rằng chính trị phải quan
tâm đến việc hiện thực hóa cách cụ thể lợi ích mang tính xã hội và nhân văn
đích thực tùy theo những bối cảnh lịch sử, địa lý, kinh tế, kỹ thuật và văn hóa
nhất định. Từ tính cụ thể của nhiệm vụ trong tầm tay và từ sự đa dạng của bối
cảnh, một sự đa phức về các chính sách cũng như giải pháp được chấp nhận về mặt
luân lý đã nổi lên. Hội thánh không có nhiệm vụ phải đưa ra những giải pháp chính
trị cụ thể – và lại càng không có nhiệm vụ đề nghị một giải pháp duy nhất có
thể coi là chấp nhận được – cho các vấn đề thế tục mà Thiên Chúa đã để cho mỗi
người tự quyết định dựa theo sự phán đoán tự do và trách nhiệm của mình. Tuy
nhiên, Hội thánh có quyền và bổn phận cung cấp một sự phán xét về mặt luân lý
cho các vấn đề trần thế khi đức tin và luật luân lý đòi hỏi.[14] Nếu các Ki-tô
hữu phải “nhìn nhận sự hợp pháp của các quan điểm khác nhau về cách tổ chức các
công việc thế tục,”[15] thì họ cũng được mời gọi để loại trừ một quan niệm đa
nguyên phản ánh thuyết tương đối về luân lý vốn là điều làm tổn thương đời sống
dân chủ. Nền dân chủ phải được xây dựng trên nền tảng chân chính và vững bền
của những nguyên tắc đạo đức bất khả nhượng bộ, vốn là những nguyên tắc cột trụ
đời sống xã hội.
Về mức độ hành vi chính trị cụ thể, thường thì có nhiều đảng phái chính trị mà
người Công giáo có thể thực thi quyền lợi và nghĩa vụ của họ để tham dự vào đời
sống xã hội của đất nước họ, nhất là qua quốc hội.[16] Điều này phát sinh vì
bản chất bất tất của những lựa chọn lựa liên quan đến trật tự xã hội, vì có sẵn
nhiều chiến lược đa dạng cùng đạt được và đảm bảo cùng một giá trị nền tảng, vì
khả thể lý giải cách rất khác nhau các nguyên tắc căn bản về thuyết chính trị, và
về sự phức tạp có tính chuyên môn của nhiều vấn đề chính trị. Tuy nhiên, điều
này không lẫn lộn với một thuyết đa nguyên mập mờ về những nguyên tắc luân lý
và những giá trị thiết yếu. Sự đa dạng hợp pháp của các chọn lựa trần thế hệ
tại ở căn cốt sự dấn thân của người Công giáo về chính trị, đồng thời liên hệ
trực tiếp đến giáo huấn Ki-tô giáo về luân lý và xã hội. Trong ánh sáng của
giáo huấn này mà giáo dân Công giáo phải đánh giá việc tham gia của mình vào
đời sống chính trị để chắc chắn rằng đời sống ấy được đánh dấu bởi một trách
nhiệm chặt chẽ đối với thực tại thế trần.
Hội thánh nhận thức rằng trong khi dân chủ là cách diễn tả tốt nhất cho việc
tham gia trực tiếp vào những lựa chọn chính trị của công dân, thì nó chỉ thành
công trong mức độ dựa vào sự hiểu biết đúng đắn về nhân vị.[17]
Việc tham gia của người Công giáo vào đời sống chính trị không được thỏa hiệp
về nguyên tắc này, bằng không thì việc làm chứng cho đức tin Ki-tô giáo trong
lòng thế giới, cũng như sự hợp nhất và thống nhất nội tâm của tín hữu ấy sẽ
không tồn tại. Các cơ cấu dân chủ mà trên đó các quốc gia hiện đại được xây
dựng sẽ rất dễ đổ vỡ nếu nền tảng của nó không đặt con người làm trọng tâm.
Chính sự tôn trọng con người là điều làm cho việc tham gia vào nền dân chủ trở
nên có thể. Như Công đồng Vatican II đã răn dạy, việc bảo vệ “quyền lợi của con
người quả là một điều kiện cần thiết cho các công dân, cá nhân cũng như tập
thể, để đóng một phần chủ động trong đời sống và điều hành cộng đồng.”[18]
4. Hàng loạt những vấn đề phức tạp ngày nay xuất phát ra ở đây, kể cả những vấn
đề mà các thế hệ trước chưa bao giờ phải đương đầu. Sự phát triển khoa học đã
tạo ra những kết quả tiến bộ làm xáo trộn lương tâm con người, nam cũng như nữ,
và đòi hỏi những giải pháp tôn trọng các nguyên tắc đạo đức một cách chặt chẽ
và nền tảng. Đồng thời, những dự luật được trình bày mà không để ý đến hậu quả
trên sự tồn vong và tương lai của con người trong vấn đề hình thành văn hóa và
ứng xử xã hội sẽ tấn công đến cả vấn đề bất khả xâm phạm của sự sống của con
người. Trong hoàn cảnh khó khăn này, người Công giáo có quyền và nghĩa vụ phải
nhắc nhở cho xã hội về một sự hiểu biết sâu xa về sự sống con người cũng như về
trách nhiệm của mọi người trong vấn đề này. Tiếp nối những giáo huấn không thay
đổi của Hội thánh, Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã nhiều lần nhắc nhở rằng
những ai trực tiếp liên hệ với cơ quan lập pháp thì phải có “nhiệm vụ quan
trọng và phủ quyết rõ ràng” bất cứ luật nào vi phạm đến sự sống của con
người. Những người tham gia lập pháp ấy, cũng như mọi người Công giáo, không ai
được cổ võ cho những luật ấy và bỏ phiếu ủng hộ chúng.[19] Như Đức thánh cha
Gioan Phaolô II đã dạy bảo trong thông điệp Evangelium vitae liên
hệ đến trường hợp không thể lật đổ hay đẩy lui hoàn toàn một khoản luật cho phép
phá thai vốn đã được áp dụng hoặc sắp được bỏ phiếu thông qua, “một nhà dân cử
mà có lập trường tuyệt đối chống phá thai được mọi người biết đến có thể ủng hộ
cách hợp pháp những dự luật nhằm hạn chế thiệt hại do những
luật cho phép phá thai gây ra, đồng thời làm giảm bớt những hậu quả tiêu cực ở
tầm mức công luận và nền luân lý cộng đồng.”[20]
Trong bối cảnh này, cần ghi nhận rằng lương tâm của một Ki-tô hữu được đào
luyện tốt không cho phép một người bỏ phiếu tán đồng cho một chương trình chính
trị hay cho một khoản luật riêng lẻ mà đi ngược lại với những nội dung căn bản
của đức tin và luân lý. Đức tin Ki-tô giáo là một tổng thể hợp nhất, và như
thế, thật là thiếu mạch lạc nếu tách riêng một vài yếu tố đặc biệt nào đó riêng
lẻ, đồng thời phương hại đến toàn bộ giáo thuyết hội thánh Công giáo. Một sự
gắn kết chính trị đối với một mảng đơn lẻ của học thuyết xã hội của Hội thánh
không làm tròn nhiệm vụ của một người với lợi ích chung được. Không một người
Công giáo nào có thể nghĩ đến việc khoán trắng trách nhiệm Ki-tô hữu của mình
cho những người khác; trái lại, Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô trao cho người ấy
trách vụ này để chân lý về con người và về thế gian được công bố và đưa đến
hành động.
Khi hoạt động chính trị đi ngược lại với những nguyên tắc luân lý vốn là những
nguyên tắc không cho phép có luật trừ, nhượng bộ hoặc giảm nhẹ, việc cam kết
của người Công giáo trở nên rõ ràng hơn và cũng chồng chất trách nhiệm hơn.
Trong việc đối diện với những đòi hỏi đạo đức căn bản và bất khả nhượng
bộ, các Ki-tô hữu phải nhận ra rằng điều mà đang bị nguy hại là điều thiết
yếu của luật luân lý, luật liên hệ đến sự tốt lành toàn vẹn của con người. Đó
là trường hợp những khoản luật liên quan đến việc phá thai và làm
chết êm dịu (không nên lẫn lộn với quyết định bỏ qua những chữa
trị ngoại thường, là điều được phép về mặt luân lý). Những luật như thế phải
bảo vệ quyền sống căn bản từ khi thụ thai đến lúc chết một cách tự nhiên. Cũng
vậy, chúng ta cần phải nhắc lại nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ những quyền lợi
của phôi thai người. Loại suy tương tự, gia đình cần được bảo
vệ và cổ võ, cần được đặt nền trên đơn hôn giữa một người nam và một người nữ,
đồng thời cần được bảo vệ tính duy nhất và vững bền của nó trước những khoản
luật mới về ly hôn: không thể nào đặt những hình thức chung sống khác ngang
hàng với hôn nhân, hay công nhận chúng cũng hợp pháp được. Điều này cũng đúng
với tự do của cha mẹ về việc giáo dục con cái của họ; đó là
quyền bất khả nhượng cũng được Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền công nhận.
Cùng cách thức như vậy, người ta phải nghĩ đến việc bảo vệ thế hệ hậu
duệ của xã hội và đến sự tự do khỏi những hình thức
nô lệ hiện đại (ví dụ như nghiện ngập và mãi dâm). Thêm vào đó, có quyền tự do
tín ngưỡng và phát triển kinh tế là thứ nằm trong mảng phục vụ con người cũng
như phục vụ lợi ích chung, song song với việc tôn trọng công bằng xã hội; có
các nguyên tắc đoàn kết và hỗ trợ con người, theo đó, các quyền cá nhân, gia
đình và các tổ chức cũng như việc áp dụng nó phải được nhìn nhận.”[21] Cuối
cùng, vấn đề hòa bình được đề cập tới. Một số nhãn quan mang tính ý thức hệ và
và ủng hộ hòa bình đôi khi có khuynh hướng thế tục hóa giá trị
của hòa bình, trong khi ở một số trường hợp khác, lại có vấn đề đơn giản hóa
những phán đoán đạo đức mà quên mất sự phức tạp của các vấn đề liên quan. Hòa
bình luôn là “công việc của công bình và tác động của đức ái.”[22] Nó
đòi hỏi một sự chối bỏ hoàn toàn và triệt để vấn đề bạo động và khủng bố, đồng
thời đòi hỏi phía các nhà chính trị một sự dấn thân có tính kiên định và thận
trọng.
III. Các nguyên tắc của học thuyết Công giáo về tính tự trị của trật tự
trần thế và về thuyết đa nguyên
5. Mặc dù sự đa nguyên về phương pháp tiếp cận các vấn đề trên phản ảnh được sự
đa dạng về cảm thức và văn hóa có thể là điều hợp pháp, nhưng không một người
Công giáo nào được phép nại vào nguyên tắc đa nguyên và quyền tự trị của người
tín hữu tham gia vào đời sống chính trị mà ủng hộ những chính sách ảnh hưởng
đến lợi ích chung, tức là những chính sách làm thương tổn hay giảm nhẹ những
đòi hỏi cản bản về đạo đức. Tự bản chất của chúng, đây không phải
là vấn đề của “những giá trị tuyên tín”, bởi vì những quy chuẩn đạo đức như thế
bắt nguồn từ chính bản chất con người và thuộc về luật luân lý tự nhiên. Chúng
không đòi buộc những ai bảo vệ chúng một sự tuyên xưng đức tin Ki-tô giáo, mặc
dù giáo huấn của Hội thánh luôn luôn và ở mọi nơi đều khẳng định và bảo vệ
chúng như là một phần của việc phục vụ chân lý về con người và về công ích của
xã hội dân sự. Hơn thế nữa, không thể phủ nhận rằng chính trị phải quy chiếu
vào những nguyên tắc có giá trị tuyệt đối chính bởi vì những nguyên tắc này
nhằm để phục vụ nhân phẩm và sự tiến bộ chân chính của con người.
6. Việc nại đến “quyền tự quyết chính đáng trong việc tham gia của các giáo dân
Công giáo” vào những nhu cầu chính trị cần phải được làm sáng tỏ. Việc thăng
tiến công ích xã hội, theo lương tâm của một người, không liên quan gì đến “chủ
trương tín điều” hay bất bao dung tôn giáo. Đối với giáo thuyết về luân lý của
đạo Công giáo, quyền tự quyết về mảng chính trị và dân sự xuất phát từ mảng
chính trị và dân sự trong tôn giáo và Hội thánh – nhưng không xuất phát từ luân
lý – là một giá trị được Hội thánh Công giáo đạt được và thừa nhận, và cũng là
giá trị thuộc về di sản của nền văn minh đương đại.[23] Đức thánh cha Gioan
Phaolô II đã nhiều lần cảnh báo về những nguy cơ nhầm lẫn giữa phạm vi tôn giáo
với phạm vi chính trị. “Những trường hợp nhạy cảm nghiêm trọng xuất hiện khi
một luật tôn giáo cụ thể trở thành hay có xu hướng trở nên luật của quốc gia mà
không chú ý phân biệt lãnh vực đặc thù của tôn giáo và xã hội chính trị. Trong
thực tế, việc đồng hóa luật tôn giáo với luật dân sự có thể bóp nghẹt tự do tín
ngưỡng, thậm chí có thể đi đến mức giới hạn hay khước từ những quyền bất khả
nhượng bộ của con người.”[24] Tất cả mọi tín hữu đều ý thức rằng các hoạt động
tôn giáo cụ thể (như tuyên xưng đức tin, thờ phượng, cử hành các bí tích, giáo
thuyết thần học, trao đổi giữa giáo quyền với các thành viên của các tôn giáo)
hoàn toàn nằm ngoài trách nhiệm của nhà nước. Nhà nước không được can thiệp
hoặc đòi hỏi bất kỳ cách nào, cũng không được cấm đoán các hoạt động này, trừ
khi nó là vấn đề của trật tự công cộng. Việc công nhận quyền dân sự hay chính
trị, cũng như phân bổ công việc phục vụ cộng đồng không được phụ thuộc niềm tin
tôn giáo hay hoạt động tín ngưỡng của người dân.
Quyền lợi và bổn phận của người Công giáo cũng như của mọi công dân để nhằm tìm
kiếm chân lý với sự chân thành và cổ võ cũng như bảo vệ những chân lý về luân
lý liên quan đến xã hội, công bằng, tự do và các quyền con người khác bằng các
phương tiện hợp pháp là điều hoàn toàn khác. Thực tế là một số chân lý này vốn
cũng có thể được Hội thánh dạy thì không làm giảm đi tính hợp pháp về chính trị
hay “quyền tự quyết” chính đáng của sự đóng góp nơi các công dân cam kết với
chúng; cũng thế việc nhận ra những chân lý trên cho dù có dựa vào những suy tư
và khẳng quyết của niềm tin Ki-tô giáo thì tính hợp pháp cũng không bị suy
giảm. “Quyền tự quyết” này trước hết ám chỉ thái độ của một người tôn trọng các
chân lý được phát sinh từ kiến thức tự nhiên liên hệ đến đời sống con người
trong xã hội, mặc dù những chân lý ấy có thể cũng được một tôn giáo cụ thể nào
đó dạy, bởi lẽ chân lý chỉ có một mà thôi. Thật sai lầm khi lẫn lộn quyền tự
quyết chính đáng của người Công giáo trong đời sống chính trị với việc tuyên bố
một nguyên tắc vốn bất cần biết đến huấn giáo của Hội thánh về luân lý và xã
hội.
Qua việc can thiệp vào lãnh vực này, Huấn Quyền của Hội thánh không muốn thực
hiện sức mạnh chính trị hay gạt bỏ sự tự do quan điểm của người Công giáo về
những vấn đề bất tất. Thay vào đó, Huấn Quyền có ý – theo như chức năng chính
đáng của mình – giáo huấn và soi sáng lương tâm các tín hữu, nhất là những
người tham gia vào đời sống chính trị, để những hành động của họ có thể luôn
phục vụ cho thăng tiến con người cách toàn diện và lợi ích chung. Học thuyết xã
hội của Hội thánh không phải là một sự xâm phạm đến việc quản trị của các quốc
gia đơn lẻ. Nhưng đây là bổn phận người Công giáo phải thống nhất về luân lý, thứ
là duy nhất và bất khả phân chia, vốn được tìm thấy trong lương tâm mỗi người.
“Không thể có hai đời sống hiện hữu song song nhau: một bên là đời sống được
gọi tên là ‘đời sống tinh thần’ với những giá trị và đòi buộc của nó; và bên
kia là đời sống được gọi là đời sống ‘thế tục’, đời sống trong gia đình, nơi
công sở, trong các trách nhiệm xã hội, trong các trách vụ của đời sống cộng
đồng và trong văn hóa. Cái cành được tháp nhập vào cây nho là Đức Ki-tô thì
sinh hoa trái trong mọi lãnh vực của sự hiện hữu và hoạt động. Trong thực tế,
mọi lãnh vực của đời sống người tín hữu giáo dân, với tất cả sự phong phú và
khác biệt, cũng đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng ước ao rằng chính
những lãnh vực này phải là ‘những điểm hẹn trong dòng thời gian’, nơi mà tình
yêu Đức Ki-tô được tỏ lộ và hiện thực hóa hầu vừa vinh danh Chúa Cha, vừa phục
vụ tha nhân. Mọi hoạt động, mọi hoàn cảnh, mọi trách nhiệm cụ thể – thí dụ như
tài năng và sự đoàn kết trong công việc, tình yêu và sự tận tâm trong gia đình
cũng như trong việc giáo dục trẻ em, việc phục vụ xã hội và đời sống cộng đồng
cùng việc cổ võ chân lý trong mảng văn hóa – là những dịp được định liệu bởi sự
quan phòng của Chúa dành cho một ‘sự thực thi đức tin, đức cậy và đức mến cách
liên tục’ (Apostolicam actuositatem, 4).”[25] Sống và hành động theo
lương tâm của chính mỗi người về các vấn đề chính trị không phải là việc chấp
nhận cách mù quáng những lập trường xa lạ với chính trị hoặc một số thứ chủ
nghĩa tín điều, nhưng đúng hơn là cách thức mà trong đó những người Ki-tô hữu
đóng góp cụ thể phần của mình để, qua đời sống chính trị, xã hội sẽ trở nên
công bằng hơn và xứng hợp hơn với phẩm giá con người.
Trong các xã hội dân chủ, mọi dự luật đều được bàn thảo và xem xét một cách tự
do. Những ai dựa trên sự tôn trọng lương tâm cá nhân, coi bổn phận luân lý của
các Ki-tô hữu phải hành xử theo lương tâm của họ như điều loại họ ra khỏi đời
sống chính trị, phủ quyết sự hợp pháp của việc tham gia chính trị mà họ xác tín
sẽ đem lại lợi ích chung, những người này phạm lỗi dưới hình thức chủ
nghĩa thế tục bất bao dung. Lập trường như thế sẽ tìm cách phủ nhận
không chỉ bất kỳ sự tham gia của Ki-tô giáo vào đời sống cộng đồng hoặc chính
trị, mà thậm chí còn phủ nhận khả thể của chính đạo đức tự nhiên. Nếu điều này
diễn ra, nó sẽ mở đường cho tình trạng vô chính phủ về mặt luân lý, vốn chẳng
còn gì là hợp pháp ngoài chủ nghĩa đa nguyên. Hậu quả hiển nhiên sẽ là sự áp
bức của kẻ mạnh trên người yếu thế. Hơn nữa, việc loại Ki-tô giáo ra ngoài lề
sẽ chẳng báo trước điềm lành cho tương lai của xã hội hoặc cho sự hợp nhất giữa
các dân tộc; quả thật, nó đe dọa những nền tảng tinh thần và văn hóa của văn
minh nhân loại.[26]
IV. Những xem xét về các bình diện cụ thể
7. Trong những năm gần đây, đã có những tổ chức được thành lập dựa đặt nền trên
các nguyên tắc Ki-tô giáo nhưng lại ủng hộ những động lực và phong trào chính
trị có lập trường trái ngược với huấn giáo luân lý và xã hội của Hội thánh trên
các vấn đề đạo đức nền tảng. Các hoạt động như thế, vốn đối nghịch với những
nguyên tắc căn bản của lương tâm Ki-tô giáo, cũng không phù hợp với thành viên
trong các tổ chức và đoàn thể xưng mình là Công giáo. Tương tự, một số báo chí
Công giáo ở một số nước đã diễn tả những quan điểm về lựa chọn chính trị mập mờ
hoặc lầm lạc, bằng việc giải thích sai lệch tư tưởng tự trị về chính trị mà
người Công giáo được phép và không chú ý đến những nguyên tắc được đề cập ở
trên.
Niềm tin vào Đức Ki-tô Giê-su, Đấng là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6),
mời gọi các Ki-tô hữu cố gắng nhiều hơn nữa trong việc xây dựng nền văn hóa
được gợi hứng bởi Tin Mừng, vốn sẽ tái khẳng định các giá trị và nội dung của
Truyền Thống Công Giáo. Việc trình bày hoa trái của di sản tinh thần, tri thức
và luân lý của đạo Công giáo bằng những ngôn từ dễ hiểu đối với văn hóa hiện
đại là nhiệm vụ vô cùng cấp bách trong thời đại hôm nay, hầu cũng tránh một
loại vong bản văn hóa Công giáo. Hơn nữa, những thành tựu văn hóa và kinh
nghiệm trưởng thành của người Công giáo trong đời sống chính trị ở nhiều quốc
gia, nhất là từ sau Thế Chiến thứ hai, không cho phép bất kỳ thứ “mặc cảm tự
ti” trong việc so sánh với các chương trình chính trị mà lịch sử những năm gần
đây đã cho thấy là yếu nhược và hoàn toàn tai hại. Thật thiếu sót và quá hạn
hẹp khi nghĩ rằng việc dấn thân của người Công giáo trong xã hội nên được giới
hạn vào việc biến đổi cơ cấu xã hội mà thôi, bởi vì nếu ở mức độ căn bản mà đã
chẳng có nền văn hóa nào có khả năng tiếp nhận, chứng minh và đem ra thực hành
những quan điểm được khai triển từ đức tin và luân lý, thì những biến đổi này
sẽ luôn được xây dựng trên nền tảng yếu ớt mà thôi.
Đức tin Ki-tô giáo chưa bao giờ được coi là áp đặt một khung cứng nhắc trên
những vấn đề xã hội và chính trị, nhưng luôn ý thức rằng bình diện lịch sử đòi
buộc con người phải sống trong những hoàn cảnh bất toàn vốn cũng dễ thay đổi
nhanh chóng. Vì lý do đó mà các Ki-tô hữu phải gạt bỏ những lập trường và hoạt
động chính trị được gợi hứng bởi quan điểm không tưởng, vốn là nhãn quan biến
truyền thống của đức tin Kinh Thánh thành một thứ tầm nhìn tiên tri mà không hề
có Thiên Chúa, sử dụng tôn giáo một cách bệnh hoạn bằng cách hướng lương tâm về
một niềm hy vọng hoàn toàn thế tục và xóa bỏ hay cố tái giải thích việc cố gắng
hướng về sự sống vĩnh cửu của các Ki-tô hữu.
Đồng thời, Hội thánh dạy rằng tự do đích thực không thể tồn tại mà không có
chân lý. “Chân lý và tự do cùng song hành tay trong tay hoặc cùng nhau hư mất
trong bi thương.”[27] Trong một xã hội mà người ta không đề cập đến chân lý
cũng chẳng đi tìm kiếm chân lý thì mọi hình thức thực thi tự do đích thực đều
bị suy yếu, mở đường cho sự méo mó phóng đãng và cá nhân, cùng ngấm ngầm phá
hủy việc bảo vệ những điều tốt lành của con người và toàn thể xã hội.
8. Về điều này, thật có ích khi nhắc lại một chân lý mà ngày nay thường không
được nhận thức hay hình thành đúng đắn trong quan điểm công chúng: quyền tự do
lương tâm và đặc biệt là quyền tự do tín ngưỡng được giảng dạy trong Tuyên ngôn
về Tự do tôn giáo (Dignitatis humanae) của Công đồng
Vatican II, được dựa trên phẩm giá con người có tính hữu thể luận, chứ không
phải dựa trên sự bình đẳng không tồn tại giữa các hệ thống tôn giáo và văn hóa
do sự sáng tạo của con người.[28] Phản tỉnh trên vấn đề này, Đức Thánh Cha
Phaolô VI đã dạy rằng “Công đồng không đời nào đặt quyền tự do tín ngưỡng này
dựa trên thực tế rằng mọi tôn giáo và giáo huấn, bao gồm cả những giáo huấn sai
lầm, đều ít nhiều có giá trị như nhau; đúng hơn, nó được dựa trên phẩm giá con
người, là điều đòi buộc người ta không bị lệ thuộc vào những giới hạn bên ngoài
vốn có xu hướng chèn ép lương tâm trong việc tìm kiếm tôn giáo chân chính hay
trong việc gắn bó với tôn giáo ấy.”[29] Do vậy mà giáo huấn về tự do lương tâm
và tự do tín ngưỡng không đi ngược với việc tín lý Công giáo kết án chủ thuyết
thờ ơ và chủ thuyết tương đối về tôn giáo;[30] trái lại, nó hoàn toàn đồng
thuận với kết án này.
V. Kết luận
9. Những nguyên tắc nằm trong Ghi chú này được nhắm đến mục
đích soi sáng một trong những bình diện quan trọng nhất cho sự hội nhất đời
sống Ki-tô hữu: sự thống nhất giữa đức tin và đời sống, giữa Tin Mừng và văn
hóa, như được Công đồng Vatican II gợi nhắc. Công đồng khuyến khích các Ki-tô
hữu “chu toàn các nhiệm vụ trần thế một cách trung tín trong tinh thần của Tin
Mừng. Thật sai lầm khi nghĩ rằng bởi vì chúng ta không có thành đô vĩnh cửu nơi
đây, nhưng là đang tìm kiếm thành đô sắp đến, nên chúng ta có thể sao lãng các
trách nhiệm trần thế của mình; như thế là quên mất rằng vì đức tin chúng ta
càng bị đòi buộc chu toàn cách hoàn hảo hơn các trách nhiệm này tùy theo ơn gọi
của mỗi người… Chớ gì các Ki-tô hữu… hãnh diện vì có cơ hội thực thi các hoạt
động trần thế của mình theo cách thế để hội nhất mọi khía cạnh nhân bản, gia
đình, nghề nghiệp, khoa học hay kỹ thuật với các giá trị tôn giáo và dưới sự
dẫn dắt tối cao của những giá trị này mà mọi sự phải được làm để vinh danh
Thiên Chúa.”[31]
Trong buổi yết triều ngày 21 tháng 11 năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đã phê chuẩn Ghi chú này, công nhận trong buổi họp thường niên của Bộ này,
và ban lệnh ấn hành.
Rôma, từ văn phòng Bộ Giáo lý Đức tin, ngày 24 tháng 11 năm 2002, đại lễ kính
Đức Ki-tô Vua.
+ Đức Hồng Y Joseph RATZINGER
Bộ trưởng
+ Tarcisio BERTONE, S.D.B.
Nguyên Tổng Giám mục Vercelli
Thư ký
Chuyển ngữ: BS Trần Như Ý-Lan, C.N.D
Dựa trên “CONGREGATION FOR THE DOCTRINE OF THE FAITH,
DOCTRINAL NOTE on some questions regarding The Participation of Catholics in
Political Life”
http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20021124_politica_en.html
––––––––––––––––––––––––
[1] Thư gửi Diognetus, 5,5; Xem thêm Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2240.
[2] Gioan Phaolô II, Tông thư Motu Proprio Tuyên thánh Tô-ma More là bổn mạng
của các chính khách và chính trị gia, 1: AAS 93 (2001), 76.
[3] Sđd., 4.
[4] Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 31; Giáo lý Hội
thánh Công giáo, số 1915.
[5] Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 75.
[6] Gioan Phaolô II, Tông huấn, Christifideles laici, 42: AAS 81 (1989), 472.
Ghi chú tín lý này thiên về việc tham gia vào đời sống chính trị của các thành
phần tín hữu. Các giám mục của Hội thánh có quyền và bổn phận đặt ra các nguyên
tắc đạo đức liên quan đến trật tự xã hội; “Tuy nhiên việc tham gia tích cực vào
các đảng phái chính trị là dành cho các giáo dân tín hữu.” (ibid., 60). Xem Bộ
Giáo sĩ, Chỉ dẫn mục vụ và đời sống giáo sĩ (31/03/1994), 33.
[7] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 76.
[8] Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 36.
[9] Xem Công đồng Vatican II, sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 7; Hiến chế
tín lý Lumen gentium, 36; Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 31 và 43.
[10] Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles laici, 42.
[11] Trong hai thế kỷ vừa qua, Huấn quyền Giáo hoàng đã nói về những vấn đề
then chốt liên hệ đến trật tự xã hội và chính trị. Xem Lêô XIII, Thông điệp
Diuturnum illud: ASS 14 (1881–1882), 4 ff; Thông điệp Immortale Dei: ASS 18
(1885–1886), 162ff; Thông điệp Libertas præstantissimum: ASS 20 (1887–1888),
593ff; Thông điệp Rerum novarum: ASS 23 (1890–1891), 643ff; Benedict XV, Thông
điệp Pacem Dei munus pulcherrimum: AAS 12 (1920), 209ff; Piô XI, Thông điệp
Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), 190ff; Thông điệp Mit brennender Sorge: AAS
29 (1937), 145–167; Thông điệp Divini Redemptoris: AAS 29 (1937), 78ff; Piô
XII, Thông điệp Summi Pontificatus: AAS 31 (1939), 423ff; Radiomessaggi
natalizi 1941–1944; Gioan XXIII, Thông điệp Mater et magistra: AAS 53 (1961),
401–464; Thông điệp Pacem in terris: AAS 55 (1963), 257–304; Phaolô VI, Thông
điệp Populorum progressio: AAS 59 (1967), 257–299; Tông thư Octogesima
adveniens: AAS 63 (1971), 401–441.
[12] Xem Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus, 46: AAS 83 (1991); Thông
điệp Veritatis splendor, 101: AAS 85 (1993), 1212–1213; Discourse to the
Italian Parliament, 5: L’Osservatore Romano (November 15, 2002).
[13] Xem Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae, 22: AAS 87 (1995),
425–426.
[14] Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 76.
[15] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 75.
[16] Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 43 và 75.
[17] Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 25.
[18] Xem Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 73.
[19] Xem Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae, 73.
[20] Sđd.
[21] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 75.
[22] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2304.
[23] Xem Công đồng Vaticano II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 76.
[24] Gioan Phaolô II, Thông điệp ngày thế giới hòa bình 1991: “Nếu bạn muốn hòa
bình, hãy tôn trọng lương tâm của mọi người”, 4: AAS 83 (1991), 414–415.
[25] Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles laici, 59.
[26] Xem Gioan Phaolô II, Diễn văn trước Ngoại giao đoàn tại Toà thánh:
L’Osservatore Romano (January 11, 2002).
[27] Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et ratio, 90: AAS 91 (1999), 75.
[28] Xem Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 1: “Trước hết
Thánh Công Ðồng tuyên bố rằng chính Thiên Chúa đã chỉ cho nhân loại biết con
đường, để nhờ đó, trong khi phụng thờ Ngài, con người có thể được cứu rỗi và
hạnh phúc trong Chúa Kitô. Chúng tôi tin rằng Tôn Giáo chân thật, duy nhất này
tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo và Tông Truyền”. Điều này không làm giảm bớt
sự chân thành tôn trọng mà Hội thánh dành cho các truyền thống tôn giáo đa
dạng, nhận ra nơi đó “những yếu tố chân thật và tốt lành.” Cũng xem, Công đồng
Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen gentium, 16; sắc lệnh Ad gentes, 11; Tuyên
ngôn Nostra aetate, 2; Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 55: AAS
83 (1991), 302–304; Bộ Giáo lý đức tin, Tuyên ngôn Dominus Iesus, 2, 8, 21: AAS
92 (2000), 742–765.
[29] Phaolô VI, Address to the Sacred College and to the Roman Prelature: in
Insegnamenti di Paolo VI, 14 (1976), 1088–1089.
[30] Xem Piô IX, Thông điệp Quanta cura: ASS 3 (1867), 162; Leo XIII, Thông
điệp Immortale Dei: ASS 18 (1885), 170–171; Piô XI, Thông điệp Quas primas: AAS
17 (1925), 604–605; Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2108; Bộ Giáo lý đức tin,
Tuyên ngôn Dominus Iesus, 22.
[31] Công đồng Vatican II, hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 43; cũng xem Gioan
Phaolô II, Tông huấn Christifideles laici, 59.
Bộ Giáo lý đức tin
Nguồn: hdgmvietnam.com
GPKONTUM(29/06/2019) KONTUM