Thần Học Về Truyền Giáo

I.  NHỮNG VẤN ĐỀ THẦN HỌC TRUYỀN GIÁO (=TG)

A.  TỪ NGỮ
Đứng đầu các vấn đề, thiết tưởng là từ ngữ. Trong tiếng Việt, nói tới “truyền giáo, truyền đạo, giảng đạo, truyền bá Tin mừng, mở mang nước Chúa” vv., thì ai ai cũng hiểu ý nghĩa của nó. Thế nhưng, trong các ngôn ngữ Âu châu, vấn đề rắc rối hơn. Thường thì chúng ta dịch tiếng “truyền giáo” từ chữ “mission” (của Pháp và Anh ngữ); thế nhưng mission thì không chỉ có nghĩa là truyền giáo.
Thí dụ, mở Từ điển Anh Việt do Trung tâm Khoa Học Xã hội và Nhân văn quốc gia. Viện Ngôn ngữ học xuất bản tại Hà nội 1975, ta thấy “mission” có 3 nghĩa chính sau đây: 
– Công việc của một nhóm người được phái ra nước ngoài, nhất là để làm công việc chính trị thương mại: phái đoàn, sứ mệnh, nhiệm vụ.
– (a) Công việc của một nhóm giáo sĩ được phái đi để cải giáo dân chúng. Hội truyền giáo. (b) toà nhà hoặc nơi ở của một hội truyền giáo, nhất là giữa đám dân nghèo.
– (b) Nhiệm vụ hoặc bổn phận đặc biệt của một cá nhân hoặc một nhóm phải tiến hành. Sứ mệnh. (b) Một nhiệm vụ như thế do một cá nhân hay một đơn vị của lực lượng vũ trang thực hiện.
1. Missio 
Thực ra, ngay cả trong văn chương thần học, tiếng “missio” không phải lúc nào cũng có nghĩa là TG.
– Trong nguyên ngữ latinh, missio bắt nguồn bởi động từ mittere có nghĩa là “gửi đi, sai đi, phái đi”. Trong Tân ước[1], tiên vàn nó ám chỉ việc đức Kitô được Chúa Cha sai đến thế gian, cũng như việc Chúa Kitô Phục sinh sai Chúa Thánh Thần đến với Giáo hội; kế đó, nó được áp dụng vào việc Chúa Kitô sai các tông đồ và Hội thánh đi rao giảng Tin mừng. Có thể nói được là từ đầu cho tới thế kỷ XV, thần học hiểu tiếng missio theo nghĩa tổng quát ấy: thí dụ thánh Tôma Aquinô nói tới missio của Đức Kitô và missio của Chúa Thánh thần, nghĩa là việc Chúa Cha sai Đức Kitô và Chúa Thánh thần đến cứu chuộc nhân loại. 
– Sang thế kỷ XVI-XVII, tiếng mission bị thu hẹp lại. Một đàng có những người dùng tiếng mission để chỉ việc giảng cấm phòng đại phúc ở các họ đạo, cách riêng ở vùng thôn quê, (thí dụ Dòng do thánh Vinh sơn Phaolo lập ra, mang danh là Congregatio Missionis); đàng khác, có người dùng tiếng mission (hay mission étrangère) vào việc giảng đạo cho dân ngoại (thí dụ Hội Thừa sai Paris: Mission Etrangère de Paris, viết tắt MEP). Hiểu theo nghĩa cuối này, mission là một công tác chuyên biệt, chứ không còn bao trùm tất cả các hoạt động của Hội thánh nữa: mission áp dụng cho hoạt động của Hội thánh ở vùng ngoại đạo, còn apostolat (việc tông đồ) hay pastoral (mục vụ) dành cho hoạt động tại nơi đã theo đạo.
– Vào hậu bán thế kỷ XX, nhiều người đòi xét lại vấn đề, bởi vì hạn chế tiếng missio vào một hoạt động rao giảng Phúc âm cho dân ngoại là thu hẹp tất cả sự súc tích của tiếng missio trong Tân ước, missio – như đã nói- bắt nguồn từ việc Chúa Cha sai đức Kitô đến với thế giới. Nói cách khác, theo ý kiến này, cần phải tìm tiếng nào khác chính xác hơn để thay tiếng missio khi nói về việc truyền giáo cho Dân ngoại. Có lẽ vì vậy mà từ sau công đồng một từ ngữ khác đã xuất hiện, đó là evangelisatio. Thậm chí danh xưng của Bộ Truyền giáo cũng thay đổi từ “Propaganda Fide” sang “Evangelisatio Populorum”. Luôn tiện, xin phép mở dấu ngoặc, Propaganda Fide không có nghĩa là tuyên truyền, theo nghĩa chính trị của thời cận đại đâu; vào hồi thành lập, chữ “propagare” có nghĩa là tỏa ra, lan rộng, bành trướng.
2. Evangelisatio 
Thế còn “evangelisatio” là gì? ở Việt nam, có người đã vội dịch là “Phúc âm hóa”. Thực ra tiếng evangelisatio cũng khá hàm hồ.
Trong Kinh thánh chúng ta chỉ gặp danh từ Evangelium (Phúc âm, Tin vui, Tin mừng, Tin lành), và động từ evangelisare (rao truyền Tin mừng) mà thôi; còn danh từ evangelisatio thì mới ra đời hồi thế kỷ XIX do các Hội Truyền giáo Tin lành bên Hoa kỳ tạo ra[2]. Lúc đầu thì nó có nghĩa là việc rao giảng Tin mừng cho người ngoài Kitô giáo; thế nhưng dần dần nó bao trùm tất cả hoạt động của Hội thánh, nhằm cải biến các thực tại trần thế cho hợp với tinh thần của Phúc âm. Hiểu theo nghĩa này, thì công việc evangelisatio không phải chỉ giới hạn vào những vùng truyềøn giáo, nhưng bao trùm tất cả thế giới, kể cả Âu châu và Mỹ châu nữa. Thí dụ tông thư “Evangelii Nuntiandi” do đức Phaolo VI ban hành năm 1975 nói tới việc evangelisatio của toàn thể Hội thánh, chứ không phải chỉ có vùng truyền giáo.
Nãy giờ, chúng tôi đã dành khá nhiều thời giờ cho những cuộc tranh biện về từ ngữ. Sự tranh biện ấy không phải chỉ có tính cách lý thuyết, nhằm tìm hiểu “danh chính ngôn thuận”, nhưng đàng sau vấn đề ngôn ngữ, còn có rất nhiều cuộc tranh luận về bản chất của công cuộc truyền giáo nữa.
 B.  TRUYỀN GIÁO LÀ GÌ?
Trước công đồng Vaticano II, vào khoảng thập niên 50, cuộc tranh luận chính yếu trong thần học công giáo diễn ra giữa hai trường phái Muenster (Đức) và Louvain (Bỉ) về mục tiêu của công cuộc TG: việc TG nhằm kêu gọi lương dân trở lại (conversio), hay là thiết lập Giáo hội tại địa phương (plantatio ecclesiae)?
Công đồng Vaticano II, trong sắc lệnh về hoạt động truyền giáo (Ad Gentes) số 6 đã kết hợp cả hai mục tiêu: công cuộc TG không chỉ giới hạn vào việc kêu gọi lương dân tin nhận Phúc âm và lĩnh bí tích rửa tội, nhưng còn phải tiến tới việc phát triển các Giáo hội địa phương nữa. Công cuộc truyền giáo tại một địa điểm chỉ có thể coi là chấm dứt với việc thành lập hàng giáo phẩm tại địa phương, với những cộng đồng Kitô hữu trưởng thành trong đức tin, khả dĩ có thể truyền đạo cho đồng bào của mình và các vùng lương dân.
Sau công đồng Vaticano II, nhiều câu hỏi khác được đặt lên cho thần học TG:
1/ Thế nào gọi là vùng truyền giáo? Trong các thế kỷ trước đây, biên cương dễ xác định hơn: Âu châu và Mỹ châu được coi là vùng toàn tòng Kitô giáo; còn Phi châu, Á châu, Đại dương châu là vùng truyền giáo, xét vì đa số dân chúng ở đó còn là lương dân. Thế nhưng, sang đến thế kỷ 20, vấn đề không còn đơn giản như vậy. Những vùng trước đây gọi là Công giáo (hay Kitô giáo), cũng chẳng còn giữ đạo nghĩa gì nữa. Ý thức như vậy, vào năm 1943, Henri Godin đã viết một quyển sách mang một tựa đề có tiếng vang như một quả bom: “France, Pays de Mission?”. Nước Pháp, trưởng nữ của Giáo hội, đã cung cấp bao nhiều nhà thừa sai đi khắp năm châu, giờ đây, lại trở thành nơi cần được truyền giáo. Theo quan điểm này, cần phải loại bỏ ý tưởng “vùng truyền giáo”, “hoạt động TG”: không thể giới hạn vùng TG vào Á Phi, nhưng cần phải tính chuyện TG cho cả Âu Mỹ nữa. Mặt khác, hoạt động TG không phải chỉ là một công việc dành riêng cho một số nhà thừa sai: toàn thể hoạt động của HT phải nhắm tới việc thực thi một sứ mạng (mission) duy nhất mà đức Kitô đã ủy thác cho các tông đồ. Nói một cách cực đoan hơn nữa, Tòa thánh nên dẹp quách cái Bộ Truyền giáo đi, xét vì tất cả hoạt động của Hội thánh phải hướng về việc TG, chứ không thể khoán cho một cơ quan hành chánh.
2/ Vấn nạn vừa nêu trên đây cho thấy rằng không thể dùng tiêu chuẩn lãnh thổ để định nghĩa việc TG. Thế nhưng, bên cạnh tiêu chuẩn có tính cách hành chánh, lại còn có những vấn nạn khác nghiêm chỉnh hơn, liên quan đến sự cần thiết và mục tiêu của nó.
Trước đây, một số người lên đường đi TG vì nghĩ rằng mình phải đi cứu rỗi các linh hồn của người ngoại: phải kêu gọi họ trở lại, gia nhập Kitô giáo thì mới được rỗi linh hồn; ai không rửa tội thì khi chết sẽ mất linh hồn sa hỏa ngục hết. Thế nhưng, công đồng Vaticano II có cái nhìn bớt đen tối hơn: nghĩa là những người ngoài Kitô giáo có thể được cứu rỗi nếu họ biết sống trung thành với lương tâm của mình. Ngoài ra, như chúng ta đã biết, công đồng cũng tỏ bày lòng quý trọng đối với các tôn giáo, không còn coi như là con đẻ của ma quỷ, thờ lạy bụt thần dối trá. Thêm vào đó, công đồng cũng bênh vực quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người. Như vậy công cuộc TG có còn ý nghĩa gì nữa không? nếu lương dân có thể được cứu rỗi, thì cần chi giảng đạo cho họ nữa? nếu các tôn giáo khác cũng có cái hay cái tốt, thì tại sao phải khuyên bảo họ trở lại Kitô giáo làm chi? 
3) Từ những vấn nạn vừa kể, ta thấy có những luồng tư tưởng mới trong thần học TG từ sau công đồng, khi muốn đặt lại toàn bộ vấn đề. Tỉ dụ trong liên hệ với các tôn giáo, người ta nhấn mạnh tới sự “đối thoại”, nhằm sửa đổi lại não trạng khinh miệt các tôn giáo trước đây. Thế rồi sớm muộn gì câu hỏi cũng được đặt ra: đối thoại để làm gì? đối thoại để chiêu dụ họ về với Kitô giáo, hay là giúp họ thâm tín hơn trong tín ngưỡng của họ? – Riêng về sự cứu rỗi, người ta mở rộng thêm nhãn giới, nói tới sự cứu rỗi toàn diện con người, chứ không phải chỉ cứu rỗi linh hồn: cần phải nghĩ tới sự giải phóng con người khỏi tất cả những gì làm hạ giá nhân phẩm: dốt nát, bệnh tật, nghèo đói, bị bóc lột, bị tước đoạt tự do. Thế nhưng, ở đây, người ta cũng vấp phải vấn nạn: trước một người đói, cần giảng cho họ về tình yêu của Thiên Chúa trước, hay cần cho họ cơm bánh trước? nếu chỉ nói về tình yêu của Chúa mà không cho họ cơm bánh thì chẳng là phi nhân đạo sao? nhưng nếu cho họ cơm bánh trước thì liệu có thể bị hiểu lầm là chiêu dụ hay không? và để tránh sự hiểu lầm đó, phải chăng tốt hơn chỉ nên nghĩ đến việc giúp đỡ họ, mà không có hậu ý truyèn đạo gì hết? nói khác đi, giúp người nghèo vì muốn thăng tiến người nghèo chứ không phải vì muốn cho họ theo đạo. Dần dần đi từ vài hoàn cảnh cụ thể người ta đặt ra vấn nạn tổng quát như thế này: phải chăng đã đến lúc nên dẹp chuyện TG hoặc giảng đạo qua một bên, đang khi mà đa số nhân loại đang lâm cảnh nghèo đói, và thay vào đó bằng những chương trình thăng tiến con người? Làm như vậy thì liệu có biến Hội thánh thành một cơ quan cứu tế xã hội hay không? Không thiếu người đã nghĩ như vậy, nhất là từ phía Tin lành. Do ảnh hưởng của Karl Barth, Vicedom chủ trương rằng việc TG tiên vàn là công trình của Chúa “Missio Dei”, nghĩa là để Chúa lo liệu. Chúng ta không nên bận tâm đến việc chiêu dụ người ta trở lại đạo, thành lập Giáo hội; bổn phận chúng ta là âm thầm làm chứng tá qua việc phục vụ nhân loại, cải biến thế giới trở thành môi trường hợp với nhân đạo hơn. Cần phải xóa bỏ biên cương phân biệt đạo đời đi, bởi vì khi chống đói giảm nghèo là chúng ta đang phục vụ Nước Chúa rồi.
Có thể coi đó là bối cảnh của những vấn đề thần học TG mà đức Gioan Phaolô II muốn trả lời trong thông điệp “Sứ mạng của Chúa Cứu thế”
II.  THÔNG ĐIỆP REDEMPTORIS MISSIO 
Những vấn nạn vừa nêu không chỉ giới hạn trong các sách báo thần học mà ảnh hưởng không nhỏ đến tâm thức của cả Giáo hội, đặc biệt là các nhà thừa sai. Chính vì muốn đánh tan những nghi ngờ bấp bênh ấy mà nhân dịp 25 năm bế mạc công đồng Vaticano II, (7/12/1990) đức Gioan Phaolo II đã ban hành thông điệp “Redemptoris Missio” (=RM: Sứ mạng của Đấng Cứu thế) nhằm khẳng định những giá trị của sứ mạng TG. Tưởng cũng nên biết là 10 năm sau khi bế mạc công đồng, một văn kiện quan trọng liên can tới việc truyền giáo đã được đức Phaolo VI công bố ngày 8/12/1975, đó là tông huấn “Evangelii Nuntiandi”, đúc kết những thành quả của Thượng hội đồng Giám mục thế giới họp năm trước đó về việc loan truyền Tin mừng cho thế giới, một đề tài nói được là bao quát hơn công cuộc truyền giáo.
A.  NHỮNG NGUYÊN TẮC
Trước khi vào đề, thiết tưởng nên nhắc lại một nhận xét về từ ngữ đã nói trên đây. Tiếng “TG” ở Việt ngữ dịch từ tiếng “missio”. Thế nhưng theo nguyên ngữ cũng như theo thần học, thì missio có nghĩa là sự “sai đi”, và do đó mang ý nghĩa là “sứ vụ, sứ mạng”. Họa theo sắc lệnh Ad Gentes của công đồng Vaticano II, thông điệp RM đặt nền tảng của vấn đề TG từ missio nguyên khởi phát xuất từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, tức là từ việc Chúa Cha sai Con Một mình đến thế gian, và rồi đến lượt đức Kitô trong Chúa Thánh Thần sai Hội thánh đi loan Tin mừng cho nhân loại. Trải qua những chuỗi sai phái như vậy, tuy về hình thức và giai đoạn có sự khác biệt, song nguồn gốc và động lực trước sau vẫn như một, tức là thông đạt tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Thiên Chúa muốn thông ban mình cho con người, và kêu gọi con người vào chia sẻ hạnh phúc ấy. Khởi nguyên và tận điểm của mọi sự sai đi (hoặc TG) là tình yêu của Thiên Chúa và hạnh phúc của con người. Dựa trên kế hoạch ấy mà Đức Gioan Phaolo II lần lượt trình bày những nguyên tắc của công cuộc TG cũng như trả lời cho những vấn nạn nêu lên.
1/ Nói rằng Thiên Chúa yêu thương con người và muốn cho con người chia sẻ sự sống với mình thì cũng như quả quyết rằng Thiên Chúa muốn cho hết mọi người được cứu rỗi. Có điều đáng cho chúng ta lưu ý là ý muốn của Chúa khác với ý muốn của ta: nhiều lần ý muốn của ta chỉ là ước mơ; còn Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, thì khác: ý muốn của Ngài (đồng nghĩa với tình thương) có tính cách sáng tạo. Khi Ngài đã muốn (đã yêu) thì điều muốn phải thực hiện. Nói khác đi, khi Ngài muốn cho hết mọi người được cứu rỗi thì Ngài cũng lo liệu xếp đặt các phương thế để cho con người đặt tới cứu cánh.
2/ Đức Kitô được sai đến (missio) thế gian không những để loan báo cho con người biết ý định tình thương của Chúa Cha nhưng còn thực hiện chương trình ấy nữa qua cuộc Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh. Vì vậy mà đức Kitô trở nên đấng Cứu chuộc của nhân loại: Ngài là Đường mà tất cả chúng ta phải qua để đến với Chúa Cha. Ngài là vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa với loài người. Đến đây, Đức Gioan Phaolo II dừng lại để trả lời cho một số vấn nạn liên hệ đén sự cứu rỗi của những người ngoài Kitô giáo.
a) Đức tin công giáo không cho phép tách rời ra một bên là đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, và bên kia là đức Giêsu (số 6). Sự khẳng định này nhằm tới một số thuyết gần đây coi đức Giêsu chỉ như là một trong số những nhà lập đạo khác, tựa như đức Phật, hay Mahomet. Theo họ, đức Kitô hoàn vũ (Christus cosmicus) lớn hơn đức Giêsu lịch sử; và không có gì cản trở việc đức Kitô có thể nhập thể qua những nhân vật khác nhau. – Đối lại với những thuyết ấy, thông điệp khẳng định rằng đức Giêsu và đức Kitô là một ngôi vị. Tuy rằng trong lịch sử cứu rỗi, có những nhân vật (tựa như các ngôn sứ ở Israel) được Thiên Chúa sai đến như là sứ giả của Ngài, làm môi giới đối với nhân loại, song vị trí của đức Kitô có tính cách độc nhất vô nhị: Ngài là Thiên Chúa nhập thể, là nguyên nhân của ơn cứu độ.
b) Nói rằng đức Kitô là trung gian duy nhất của ơn cứu độ không có nghĩa rằng những ai không biết đức Kitô thì sẽ không được cứu rỗi. Dựa trên số 22 của hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” của công đồng, đức Gioan Phaolô II nói rằng những người chưa nhận biết sứ điệp của đức Kitô có thể được cứu rỗi, qua một hồng ân mà Chúa Thánh Thần ban cho họ, đưa họ tới tiếp xúc với mầu nhiệm Vượt qua của đức Kitô (RM 10). Hồng ân ấy là công hiệu của hy lễ của đức Kitô, được thích ứng với hoàn cảnh thiêng liêng và vật chất của họ, nhờ đó họ có thể đáp lại lời mời của Chúa đón nhận ơn cứu rỗi.
c) Đức Kitô được sai đến trần gian để thiết lập Nước Chúa. Ngài thực hiện sứ mạng ấy qua việc rao giảng Nước Chúa đã đến, chữa lành các bệnh tật, xua đuổi ma quỷ, tha thứ tội lỗi, phục hồi sự sống. Tuy nhiên cao điểm của sự thiết lập Nước Chúa là việc Ngài tuân phục thánh ý Chúa Cha trao hiến mạng sống như bảo chứng của tình yêu vô biên đối với nhân loại. Sự Phục sinh của đức Kitô đánh dấu giai đoạn mới của việc thiết lập Nước Chúa: tội lỗi, sự dữ và cái chết bị dẹp tan; con người lãnh nhận được ơn tha thứ và sự sống nhờ đức Kitô. Từ nay, Nước Thiên Chúa có trọng tâm là đức Kitô. – Thông điệp RM đã dành suốt một chương Hai để bàn về Nước Chúa, nhằm trả lời cho một số học thuyết giới hạn việc xây dựng Nước Chúa vào sự giải phóng nhân bản. Theo họ, đức Giêsu phục vụ Nước Chúa qua việc phục vụ con người, đặc biệt là người nghèo, người bị áp chế, người sống bên lề xã hội. Giáo hội cũng phải theo gương đó: thay vì lo giảng đạo, thì hãy dốc tâm-lực vào sự phục vụ giải phóng con người. Đức Gioan Phaolo II đã muốn trình bày ý nghĩa của Nước Thiên Chúa trong Kinh thánh, cách riêng sự liên hệ giữa Nước Thiên Chúa với đức Kitô và với Hội thánh. Nước Thiên Chúa không phải là một khái niệm mơ hồ, một ý thức hệ, song gắn chặt với thân thế, lời giảng và việc làm của đức Kitô. Một cách cụ thể hơn, ở số 20, thông điệp xác định thế nào là phục vụ Nước Chúa. Hội thánh phục vụ Nước Chúa qua bốn hình thức sau đây: (1) loan báo đức Kitô và Tin mừng của Ngài; (2) thiết lập Giáo hội địa phương, bởi vì Giáo hội là dụng cụ của Nước Chúa; (3) cổ võ những giá trị của Nước Chúa (tựa như: đối thoại; thăng tiến con người; dấn thân xây dựng công lý và hòa bình; giáo dục và săn sóc người đau yếu bệnh tật; giúp đỡ người nghèo); (4) sau cùng Hội thánh cũng phục vụ Nước Chúa khi cầu nguyện khẩn nài cho Nước Chúa mau đến trong thế gian.
3/ Sau khi đã trình bày những nguyên tắc của công cuộc TG trong tương quan với Chúa Cha và đức Kitô, thông điệp RM thêm một chiều kích thứ ba nữa (ở chương Ba), xét tới mối liên hệ với Chúa Thánh Thần. Thánh Thần là tác nhân chính của công cuộc TG, Ngài điều khiển hướng đi của Hội thánh, thúc đẩy Hội thánh tiến về biên cương mới, không những xét theo nghĩa là về lãnh thổ địa lý mà và cả theo nghĩa là những biên cương chủng tộc và tôn giáo nữa. Số 28 nói đến sự hiện diện phổ quát của Thánh Thần, không bị hạn chế về thời gian và không gian. Thánh Thần đã tác động ngay từ buổi khai nguyên của lịch sử nhân loại cũng như ngày nay Ngài tác động vựơt ra ngoài những giới hạn của Giáo hội hữu hình. Cách riêng, Đức Gioan Phaolô II bàn tới ba hình thức của sự hiện diện và tác động của Thánh Linh: a/ trong con tim của mỗi người; b/ trong các mầm giống của Chân lý nơi các tôn giáo và các nền văn hóa; c/ trong những nỗ lực của con người hướng về Chân Thiện Mỹ, hướng về Đấng Tối cao, cách riêng qua việc cầu nguyện.
Việc trình bày chiều kích Thánh Linh của hoạt động TG đưa tới những hệ luận rất quan trọng. Thứ nhất, cần phải biết nhìn nhận vai trò chủ động của Thánh Thần trong công tác TG: sự trở lại và tin nhận đức Kitô không phải là hiệu quả của những sáng kiến tài năng của Hội thánh mà là của ơn thánh. Do đó, Hội thánh cần làm sao để trở nên dụng cụ bén nhạy của Chúa Thánh Thần. Thông điệp đã dành một chương (chương Tám) để bàn về linh đạo truyềøn giáo, nhắm để cho Thánh Thần uốn nắn nên dụng cụ thích ứng, cách riêng qua việc cầu nguyện và từ bỏ bản thân. – Thứ hai, nếu nhìn nhận rằng Thánh Thần không ngừng tác động trong thâm tâm của mỗi người và trong các nền văn hóa của nhân loại, thì khi mang Tin mừng đến cho tha nhân nhà TG phải tỏ thái độ kính cẩn biết khám phá sự hiện diện của mầm mống chân lý nơi tha nhân nữa. Nói khác đi, phải loại bỏ thái độ ngạo mạn, coi như chỉ có mình mới biết chân lý, còn ngoài ra, tất cả chỉ là sai lầm gian dối. – Tuy nhiên, một mặt khác, thông điệp cũng không tán thành những chủ trương không kém phần cực đoan, theo đó hoạt động TG phải giới hạn vào việc đối thoại, giúp cho các tôn giáo khác đào sâu thêm vẻ đẹp của họ, chứ không được rao giảng đức Kitô. Ở số 29, ĐTC nói rằng chúng ta không được phép tách rời Thánh Thần tác động trong thế gian ra một bên và Thánh Thần của đức Kitô ra bên khác. Chỉ có một Chúa Thánh Thần mà thôi: Thánh Thần hướng dẫn con người về với đức Kitô, xét vì chính Thánh Thần đã tác động trong việc Nhập thể và Phục sinh của đức Kitô, nhằm tới sự cứu rỗi của nhân loại.
Dựa trên những nguyên tắc vừa nói, nghĩa là nền tảng của công cuộc TG xét trong mối liên hệ với Ba Ngôi Thiên Chúa, thông điệp đi vào vai trò của Hội thánh trong công cuộc này. Như đã nói trên đây, Hội thánh đã được thiết lập và sai đi để loan báo và phục vụ kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa đã thực hiện nơi đức Kitô. Việc chấp nhận tin mừng ấy cũng bao gồm sự gia nhập Hội thánh, vì đã được đặt lên làm dấu chỉ và dụng cụ của sự cứu rỗi. Dĩ nhiên sự gia nhập Hội thánh không có nghĩa như là ghi danh đăng ký vào một tổ chức xã hội, nhưng tiên vàn là sự đón nhận hồng ân mà Chúa đã ban cho con người qua đức Kitô, và rồi cộng tác với các tín hữu khác để tuyên dương tình yêu của Chúa trước mặt nhân loại.
 B.  HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO
Như đã nói, trong tiếng latinh TG (missio) nguyên gốc có nghĩa là “sai đi”: bắt nguồn từ việc đức Kitô được sai đến thế gian để mang tình yêu của Thiên Chúa cho con người; tiếp đến, Hội thánh được đức Kitô sai đi để tiếp tục sứ mạng ấy. Nói khác đi, toàn thể Hội thánh đựơc sai đi, toàn thể HT mang sứ mạng TG. Thế thì có thể nói đựơc tất cả các hoạt động của Hội thánh đều là TG hay không? từ việc giảng dạy đạo lý cho tới việc săn sóc người tàn tật, bất cứ việc gì cũng có thể coi là công tác TG hay chỉ có vài công tác đặc định? sự phân biệt những vùng TG trong thế giới có còn lý do tồn tại nữa không?
1. Xác định lãnh vực TG 
Tuy rằng tất cả Hội thánh lãnh nhận một missio (sứ mạng) từ đức Kitô, đó là phục vụ nước Chúa, nhưng sứ mạng phổ quát ấy có thể mang những hình thức khác biệt tùy theo những trạng thái khác nhau của đời sống đức tin: có những nơi hay những người hoặc chưa bao giờ nghe giảng Phúc âm, hoặc đã theo đạo rồi nhưng không còn giữ đạo nữa. Vì vậy ở số 33, thông điệp phân biệt ba hình thức: (1) “missio ad gentes”, mà ta có thể dịch là “truyền giáo”, dành cho những ai chưa phải là Kitô hữu; (2) hoạt động mục vụ, dành cho những người đã theo đạo; (3) tái rao giảng tin mừng[3], hướng tới những người đã theo đạo nhưng không còn tin hay giữ đạo nữa.
Nên biết là trong hạng thứ nhất (missio ad gentes), thông điệp dùng đến ba tiêu chuẩn để xác định hoạt động TG: a/ tiêu chuẩn địa lý, nghĩa là những vùng hay những dân mà Phúc âm chưa tỏa đến. b/ tiêu chuẩn xã hội: những môi trường xã hội, những lớp người chưa được nghe Phúc âm, tựa như những người tị nạn, những lớp người sống bên lề xã hội; c/ tiêu chuẩn thứ ba nhắm cách riêng đến các lãnh vực văn hóa, tựa như: các phong trào tranh đấu nhân quyền, ngành điện ảnh văn nghệ. Khi phối hợp lại ba tiêu chuẩn khác nhau, ta có thể nhận thấy rằng một nước hay thậm chí một giáo phận có thể được xếp vào cả ba trạng thái sống đức tin. Tỉ dụ như tại Rôma, tuy đại đa số các hoạt động thuộc vào hoạt động mục vụ, nhưng cũng cần thúc đẩy công tác “tái truyềøn giảng Tin mừng” cho biết bao nhiêu tầng lớp chỉ còn mang danh là người công giáo chứ chẳng còn giữ đạo nữa; và đồng thời cũng phải xúc tiến việc TG cho những lớp người Phi châu tị nạn chưa có đạo. Đối lại, ta cũng có thể tưởng tượng giáo phận Xuân lộc, bên cạnh những hoạt động mục vụ hay TG cổ truyền, cũng cần phải nghĩ tới việc “tái truyền giảng Tin mừng” cho những lớp người mang tiếng là “đạo dòng”, nhưng chỉ có đạo ngoài vỏ.
2. Động lực và mục tiêu của việc TG. Hay là: tại sao phải TG? TG để làm gì?
– Tại sao phải TG? Trong quá khứ có lẽ đã có người trả lời rằng: bởi vì chỉ có đạo công giáo mới là đạo thật, còn các đạo khác dạy điều dối trá sai lầm, thờ lạy bụt thần ma quỷ! Câu trả lời ấy không còn đứng vững khi mà người ta nhận thấy rằng không phải các tôn giáo đều dạy điều quấy quá. Thông điệp RM số 11 đã trình bày lý do một cách khác. Ngoài mệnh lệnh của đức Kitô sai các môn đệ đi khắp thế giới giảng đạo, đức Gioan Phaolo II đặt nền tảng của việc TG trên quyền lợi cao quý nhất của con người, đó là quyền của con người được biết sự thật. Hội thánh cần phải tôn trọng quyền đó, nghĩa là phải nói cho con người biết sự thật về phẩm giá cao quý của mình. Phẩm giá ấy hệ tại việc Thiên Chúa yêu thương con người, mời gọi con người thông dự vào sự sống của Ngài, nhờ hồng ân cứu rỗi qua đức Kitô. Hoạt động truyền giáo, nhằm phục vụ chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhằm phục vụ con người: chúng ta muốn thông đạt cho tha nhân hồng ân đức tin quý báu mà chúng ta đã lãnh nhận, và hồng ân ấy liên hệ tới hạnh phúc của mọi người.
– TG để làm gì? Vào hồi đầu thế kỷ, đã có những cuộc tranh luận giữa những khuynh hướng thần học TG: có người thì đặt nặng mục tiêu là việc trở lại đạo; người khác nhấn mạnh đến việc thành lập Giáo hội địa phương. Thông điệp RM trình bày ba mục tiêu của việc TG, nằêm trong ý niệm thần học về Nước Chúa. Thực vậy, việc rao giảng Nước Chúa nhằm tới sự cải hoán, bao gồm ba chiều kích: a/ thứ nhất, tin và đón nhận ơn cứu rỗi; b/ trở thành môn đệ của đức Kitô, trở nên phần tử của Hội thánh; c/ biến cải tâm thức cá nhân hay những cơ chế tội lỗi, trái ngược với Tin mừng, ngược với nhân phẩm, dù đó là những bất công xã hội hay là những cảnh nghèo đói, bệnh tật, dốt nát.
Một khi đã xác định nguồn gốc và mục tiêu của công cuộc TG như vậy, ta có thể hiểu rằng đi việc TG không giới hạn vào việc giảng đạo và chấm dứt với việc lôi cuốn lương dân trở lại đạo. Chương Năm của thông điệp đã mô tả những hình thức khác nhau của công tác TG, đi từ những cử chỉ, thái độ đơn sơ (tựa như: thông cảm, giúp đỡ người nghèo, người bệnh), cho tới những kế hoạch phát triển và thăng tiến con người, lẫn việc rao giảng Phúc âm, xây dựng Giáo hội địa phương trong khung cảnh văn hóa dân tộc. Những chương cuối cùng của thông điệp bàn về trách nhiệm truyền giáo của các thành phần khác nhau trong Giáo hội (Chương Sáu: số 61-76), những phương thế góp phần vào công tác truyền giáo, trong đó một vị trí quan trọng được dành cho việc cầu nguyện hy sinh (Chương Bảy: số 77-86), chương cuối cùng bàn đến Linh đạo truyền giáo (số 87-92).
Trong số khá nhiều điểm đáng ghi nhận thuộc lãnh vực Thần học nền tảng, thiết tưởng không nên bỏ qua vài vấn đề:
– “Truyền giáo với các tôn giáo” (đã được đề cập trong Phụ lục số I);
– “Phúc âm và văn hoá” (xin coi Chương Năm giáo trình Nhập môn Thần học ấn bản 2005, trang 206-225)
– Liên quan đến chiều kích nhân bản của mạc khải, xin thêm ít điều về “Hoạt động Truyền giáo và sự thăng tiến con người”.
Nhìn lại những công tác truyền giáo trong quá khứ, chúng ta nhận thấy là thường thường bên cạnh nhà thờ, lại có thêm trường học và bệnh xá hay một cơ sở xã hội nào đó (từ địa điểm phát thuốc cho người bệnh, cho tới nhà mồ côi, dưỡng lão, vân vân):
1/ Người ta có thể đặt câu hỏi: công tác nào mang tính cách truyền giáo hơn cả? Có lẽ không thiếu người trả lời rằng: nhà thờ, theo nghĩa là giảng đạo, dạy đạo hoặc là nơi cử hành bí tích; còn trường học và cơ sở xã hội chỉ là những phương tiện để phụ vào việc truyền giáo, một cách để gặp gỡ dân chúng, thu phục cảm tình của họ, nhờ đó dần dần có dịp để dạy đạo cho họ. – Tuy nhiên, ta có thể vạch ra ít là hai vấn nạn chống lại quan điểm vừa nói: a) thứ nhất, là thiếu thành thực, theo nghĩa là mình đi giúp người khác (người nghèo, người bệnh) không phải vì nhằm tới thiện ích của chính họ, nhưng với một dụng ý khác, nghĩa là nhằm chiêu dụ họ theo đạo; b) thứ hai, xét vì những công tác bác ái chỉ là phương tiện truyền giáo chứ chưa phải là chính việc truyền giáo, nên dần dần một số nhà truyền giáo đâm ra nghĩ ngợi: thế thì việc làm của mình có khác chi một giáo viên, một cán sự xã hội, một nhân viên y tế?
2/ Gần đây thần học truyền giáo đã sửa đổi quan điểm ấy, nghĩa là nhìn nhận rằng các công tác bác ái từ thiện cũng là hoạt động truyền giáo. Thông điệp Redemptoris Missio của đức Gioan Phaolo II đã đặt các công việc bác ái trong chương Năm như là một hoạt động truyền giáo, cũng hệt như việc giảng dạy đạo lý vậy. Thậm chí việc để ý đến người nghèo, người khổ được xếp hàng đầu và ở cuối chương, dưới hai tựa đề là: “hình thức tiên khởi của việc loan truyềøn Phúc âm là sự chứng tá” (số 42); “bác ái là nguồn mạch và tiêu chuẩn của sự truyền giáo” (số 60). Tại sao như vậy? Ta có thể trưng ra hai lý do:
a) động lực của công cuộc truyền giáo là tình yêu, mang tình yêu của Chúa đến cho con người, con người sống trong hoàn cảnh xã hội cụ thể. Chính vì vậy mà không cần phải là giảng đạo mới gọi là truyền giáo; bất cứ cách nào chuyền thông tình yêu của Chúa (tình yêu chuyền thông qua thái độ, tâm tình, cử chỉ, hành động chứ không phải bằng lời nói suông), đều là “truyền giáo” rồi vậy. 
b) sự cứu rỗi nhằm tới toàn diện con người, không phải chỉ cứu rỗi linh hồn, hạnh phúc đời sau, mà cả cái thân thể, hạnh phúc đời này nữa. Dĩ nhiên có một đẳng cấp các giá trị: các giá trị tinh thần quan trọng hơn các giá trị vật chất; thực vậy, hạnh phúc con người không hệ tại ăn sung mạc sướng; bằng chứng là không phải những người giàu đều cảm thấy mình hạnh phúc nhất đời. Tuy nhiên, sự cứu rỗi toàn diện con người đòi hỏi rằng con người cần được giải phóng khỏi những gì làm hạ giá nhân phẩm: sự nghèo đói, dốt nát, bất công, xét vì chúng đi ngược với sự thiện, ngược với các giá trị của Nước Chúa, Nước của công chính, tự do, chân lý.
3/ Chính vì vậy mà trong các công tác truyền giáo, thông điệp Redemptoris Missio ghi thêm sự phát triển con người. Điều này giả thiết rằng hoạt động của Giáo hội không thể nào chỉ giới hạn vào những cử chỉ từ thiện bác ái dành cho từng cá nhân, nhưng còn phải nhắm tới những kế hoạch phát triển có ảnh hưởng đến những cơ chế xã hội nữa. Mặt khác, đức Gioan Phaolo II cũng lưu ý rằng có nhiều chính sách và quan điểm về sự phát triển. Giáo hội không phải là chuyên viên về sự phát triển kinh tế hay kỹ thuật. Tuy nhiên, Giáo hội giữ một vai trò không ai thay thế được trong việc phát triển con người, đó là gây cho con người ý thức về phẩm giá của mình. Ở số 58 ta đọc thấy như sau: “sự phát triển của một dân tộc không thể đo lường theo mức độ tiền bạc, kỹ thuật, khoa học. Sự phát triển còn hệ tại sự trình độ đạo đức, cách thức suy tưởng và cư xử nữa”. Sự phát triển phải nhằm đến việc thăng tiến con người, chứ con người không thể bị hy sinh cho các công cuộc kiến thiết kỹ thuật. Chính sự đạo đức, sự hiểu biết về thiên chức con người, về vai trò con người trong tương quan với Thiên Chúa và với vũ trụ, cũng như thái độ đối xử với tha nhân, với vũ trụ là nhân tố định hướng cả một nền văn hóa và chính sách phát triển của một dân tộc. Số 59 nói tiếp thêm rằng Phúc âm mang theo sự giải phóng con người, (kể cả con người sống ở các xã hội phong phú về vật chất ở Âu Mỹ) khỏi những nhu cầu giả tạo, thúc đẩy một cuộc cách mạng tư tưởng, sự thay đổi não trạng và lối sống nô lệ cho ích kỷ.

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Nguồn: catechesis

WGPKT(06/08/2021) KONTUM

—————————-

THƯ MỤC
NHỮNG VĂN KIỆN QUAN TRỌNG VỀ TRUYỀN GIÁO TỪ VATICANÔ II
– VATICANÔ II, Sắc lệnh Ad Gentes về hoạt động truyền giáo của Giáo hội (8-12-1965).
– PHAOLÔ VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi về việc loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay (8-12-1975). Đây là văn kiện đúc kết thành quả của Thượng hội đồng Giám mục thế giới họp năm 1974, và được ban hành nhân kỷ niệm 10 năm bế mạc công đồng Vaticanô II.
– GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Redemptoris Missio (7-12-1990). Nội dung đã được giới thiệu trên đây.
Trước khi bước sang thiên niên kỷ thứ ba, Đức Thánh Cha đã triệu tập các Thượng hội đồng cho năm đại lục, để thảo kế hoạch loan báo Tin mừng cho mỗi miền, với kết quả được đúc kết nơi các Tông huấn hậu Thượng hội đồng:  Ecclesia in Africa (14-9-1995), Ecclesia in America (22-1-1999), Ecclesia in Asia (6-11-1999), Ecclesia in Oceania (22-11- 2001),Ecclesia in Europa (28-6-2003).
– CONGREGATION FOR THE DOCTRINE OF THE FAITH, Doctrinal Note  On Some Aspects Of Evangelization (3-12-2007).
——————
[1] “Missio, mittere, missus” tiếng Latinh tương đương với các danh từ apostole, apostolos; động từ apostellô trong nguyên bản Hy-lạp. Như vậy, lúc đầu, hai danh từ missio và apostolatus đồng nghĩa với nhau; nhưng qua dòng thời gian, mỗi từ mang một nghĩa chuyên biệt: “truyền giáo” và “tông đồ”.
[2] Alexander Duff (1806-1878): “The chief means of Divine appointment, for theevangelization of the world are the faithful teaching and preaching of the pure Gospel of salvation by duly qualified ministers and other holy and consistent disciple of the Lord Jesus Christ, accompanied with prayer and savingly applied by the grace of the Holy Spirit” (Union Missionary Convention New York, 1854).
[3] Từ ngữ “new evangelization” được ĐTC Gioan Phaolô II sử dụng trong cuộc gặp gỡ với các giám mục châu Mỹ Latinh tại Puerto Principe (8-3-1983): không phải là rao giảng một Phúc âm mới, nhưng mới xét theo lòng hăng say, phương pháp, cách diễn đạt.