WHĐ (28/12/2025) – Chúng ta đang chuẩn bị chào đón năm mới 2026. Tuy nhiên, nếu theo lịch Âm (lịch Việt Nam), chúng ta vẫn chưa đến Tết. Tạ ơn Chúa vì chúng ta đang sử dụng hai hệ thống lịch đều rất ý nghĩa.
Thật vậy, ngày 01 tháng 01 (Dương lịch) đánh dấu ngày năm mới trong văn hóa phương Tây từ thời La Mã cổ đại. Năm 45 TCN, Hoàng đế Julius Caesar cải cách lịch và lần đầu tiên chọn mồng 01 tháng 01 làm ngày khởi đầu năm mới, thay cho thông lệ cũ là ngày 25/3. Lịch Julius của Caesar tính một năm 365,25 ngày, nhưng do sai số dồn lũy tiến nên đến thế kỷ XVI, Giáo hội Công giáo nhận thấy cần điều chỉnh lại lịch cho chính xác.
Về phía Giáo hội, năm 1582, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XIII ban hành lịch Grêgôriô (lịch Tây hiện nay) và tái khẳng định ngày 01 tháng 01 hằng năm là ngày đầu năm mới. Kể từ đó, hầu hết các quốc gia Kitô giáo ở châu Âu đều đón mừng tết Dương lịch vào ngày này mỗi năm. Trong truyền thống Công giáo, ngày 01/01 kết thúc tuần Bát nhật Giáng sinh. Đây cũng là lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Ngoài ra, ngày đầu năm Dương lịch Giáo hội còn mừng lễ Hài Nhi Giêsu chịu phép cắt bì và được đặt tên sau tám ngày giáng sinh. Với người Công giáo, ngày đầu năm Dương lịch vừa mang chiều kích thiêng liêng, vừa mở một năm mới trong ơn phúc và an bình.
1. Lịch phương Tây vào Việt Nam
Khi học lịch sử, có lẽ học sinh nào cũng biết lịch phương Tây đã du nhập vào Việt Nam từ nhiều thế kỷ trước. Trước đó hàng nghìn năm, người Việt canh tác nông nghiệp, lễ hội và tổ chức sống theo lịch Âm, với ngày đầu năm là tết Nguyên đán. Trong khi đó, lịch phương Tây (Dương lịch) lại gắn liền với những cuộc truyền giáo từ thế kỷ XVII và giai đoạn thuộc địa cuối thế kỷ XIX. Ngay từ khi đạo Công giáo vào Việt Nam (khoảng năm 1615), các thừa sai đã mang theo kiến thức thiên văn, lịch phương Tây và khéo léo hội nhập văn hóa bản địa[1]. Trước đó, Matteo Ricci (1552–1610) đã mở đường cho việc du nhập lịch và thiên văn học phương Tây vào Trung Hoa. Trong đó, lịch Tây thường tính thời gian theo 7 ngày một tuần (thói quen đi lễ Chúa nhật) và lịch phụng vụ dựa trên Dương lịch.
Tuy nhiên, các vị thừa sai cũng rất tôn trọng phong tục bản xứ, không tìm cách xóa bỏ Tết cổ truyền mà trái lại còn thích nghi, cho phép người tín hữu hòa mình vào những ngày lễ tết dân tộc. Chẳng hạn, các nhà truyền giáo đã tổ chức thánh lễ đặc biệt dịp tết Nguyên đán, cầu bình an năm mới, tưởng nhớ tổ tiên ông bà ngày mồng Hai tết và cầu xin thánh hóa công việc ngày mồng Ba tết. Đây là những sáng kiến phụng vụ độc đáo của Công giáo Việt Nam để đồng hành với truyền thống dân tộc. Phụng vụ Công giáo dù vận hành theo Dương lịch nhưng đã linh hoạt thích ứng trong môi trường văn hóa dùng Âm lịch.
Có lẽ dấu mốc quan trọng khiến lịch Tây phổ biến tại Việt Nam chính là thời kỳ thực dân Pháp đô hộ cuối thế kỷ XIX. Từ sau Hòa ước Giáp Thân 1884, bộ máy cai trị của Pháp bắt đầu sử dụng Dương lịch trong quản lý hành chính, vận hành song song cùng Âm lịch truyền thống. Tuy nhiên, nhà Nguyễn vẫn duy trì lịch Âm làm lịch chính thức của quốc gia cho đến tận năm 1945. Trong giai đoạn này, chính quyền thuộc địa chủ yếu dùng Dương lịch. Giáo hội cũng ủng hộ lịch này, vì nó liên quan đến lịch phụng vụ. Trong khi đó, phần lớn dân chúng vẫn sinh hoạt theo Âm lịch. Phải đến Cách mạng tháng Tám 1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới quyết định cải cách hệ thống lịch để tôn trọng Âm lịch truyền thống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 5/SL ngày 01/01/1946 quy định sử dụng lịch Grêgôriô (Dương lịch) trong mọi hoạt động hành chính Nhà nước[2]. Từ đó, Dương lịch dần thay thế âm lịch trong các công văn, giấy tờ và giao dịch chính thức của chính phủ. Thú vị là người dân vẫn duy trì thói quen dùng Âm lịch cho sinh hoạt tín ngưỡng và lễ hội truyền thống. Tôi có nhận xét hơi cảm tính rằng thế hệ trẻ ngày nay liệu có còn nhiều người biết đến lịch Âm?
Sau khi Bắc Nam chia cắt (1954), Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam tiếp tục sử dụng lịch Tây theo thông lệ quốc tế. Ở miền Bắc, Nhà nước vẫn tôn trọng Âm lịch trong đời sống văn hóa, nhưng cũng thực hiện bước cải tiến để “khoa học hóa” lịch truyền thống. Năm 1959, chính phủ lập ban nghiên cứu soạn lịch riêng cho Việt Nam. Đến ngày 8/8/1967, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Quyết định 121/CP thiết lập múi giờ GMT+7 cho Việt Nam[3] và bắt đầu áp dụng lịch Âm Việt Nam riêng, tính theo múi giờ quốc gia thay vì phụ thuộc lịch Trung Quốc (GMT+8)[4].
Kể từ năm 1968, Việt Nam tự chủ hoàn toàn trong việc tính toán lịch Âm và lịch Dương, dẫn đến những khác biệt nhất định về ngày tháng so với Trung Quốc. Chẳng hạn tết Mậu Thân 1968, do cách tính mới mà Việt Nam đón giao thừa sớm hơn Trung Quốc một ngày (tháng Chạp năm 1967 của ta chỉ có 29 ngày so với 30 ngày bên Trung Quốc). Việc này phản ánh nỗ lực của chính quyền trong việc hiện đại hóa nền lịch pháp, vừa tiếp thu Dương lịch phương Tây, vừa bảo tồn và điều chỉnh Âm lịch truyền thống phù hợp với điều kiện riêng.
Từ sau 1975, cả nước thống nhất dùng lịch Grêgôriô làm lịch chính thức trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội, đồng thời duy trì Âm lịch làm di sản văn hóa phục vụ đời sống tâm linh, lễ hội. Có thể nói, quá trình du nhập lịch phương Tây vào Việt Nam đã diễn ra từng bước. Khởi đầu đến từ các cộng đồng Công giáo và từ người Pháp, rồi được hợp thức hóa. Trải qua gần 4 thế Kỷ (nếu tính từ các thừa sai), hơn một thế kỷ (nếu tính từ thời Pháp), lịch Dương đã hòa vào dòng chảy lịch sử Việt Nam.
2. Những thú vị của lịch Phương Tây
Bước sang năm 2026, chúng ta lại chứng kiến điều thú vị là năm mới đã đến theo Dương lịch, nhưng năm cũ vẫn chưa khép lại theo Âm lịch. Trong lòng xã hội, hai nhịp thời gian cùng song hành, không loại trừ nhau, không cạnh tranh nhau, mà âm thầm đan xen. Có lẽ chính điều này làm nên nét độc đáo của văn hóa Việt Nam khi tiếp nhận lịch phương Tây.
Tạ ơn Chúa vì chúng ta đang dùng lịch phương Tây. Lý do là vì lịch này giúp người Việt bước vào nhịp sống toàn cầu. Ngày 01 tháng 01 không chỉ là ngày đầu năm của riêng Việt Nam, mà là ngày khởi đầu chung của cả thế giới hiện đại. Khi một người Việt ghi ngày tháng trên hợp đồng, email, hộ chiếu hay vé máy bay, họ đang dùng cùng một hệ quy chiếu thời gian với hàng tỷ người khác. Điều này tạo nên một ý thức liên đới âm thầm: ta không sống một mình, mà sống trong một thế giới chung, cùng chia sẻ một “nhịp thở thời gian”. Tết Dương lịch, vì thế, mở ra với thế giới, với tương lai, với những dự phóng dài hạn. Nếu tết Âm lịch gắn với cội nguồn, gia đình, tổ tiên, thì tết Dương lịch lại gắn với kế hoạch, dự án, ước mơ phía trước.
Hơn nữa lịch phương Tây giúp văn hóa Việt Nam chạy theo một trục đường thẳng của thời gian. Trong khi đó, lịch Âm gắn với chu kỳ trăng, mùa vụ và thiên nhiên, giúp con người sống hòa với nhịp điệu vũ trụ. Lịch Dương nhấn mạnh sự tiến bước không ngừng của thời gian. Năm cũ khép lại, năm mới mở ra; tháng này qua, tháng khác đến; không quay lại, không chờ đợi. Chính cảm thức này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách người Việt tổ chức đời sống hiện đại như kế hoạch năm, chỉ tiêu quý, học kỳ, năm tài chính, năm mục vụ. Nhờ lịch Dương, người Việt học cách quản trị thời gian, chứ không chỉ thuận theo thời gian.
Một nét thú vị khác là tết Dương lịch tại Việt Nam ít nghi lễ nhưng nhiều biểu tượng. Không có bánh chưng, không có mâm cỗ cúng giao thừa, không có nghi thức tiễn đưa năm cũ theo nghĩa truyền thống. Nhưng lại có những biểu tượng mới: đồng hồ đếm ngược, pháo hoa, ánh sáng, những cái ôm giữa bạn bè, những lời chúc ngắn gọn qua tin nhắn. Đây là thứ văn hóa mang tính đô thị, nhanh, gọn, ít ràng buộc, rất phù hợp với người trẻ. Có thể nói, tết Dương lịch là “tết của nhịp sống hiện đại”, nơi con người gặp nhau không phải vì huyết thống, mà vì tình bạn, công việc, cộng đồng.
Với người Công giáo Việt Nam, lịch phương Tây lại mang thêm một chiều kích rất riêng. Ngày 01 tháng 01 không chỉ là năm mới, mà còn là ngày cầu nguyện. Thánh lễ đầu năm không ồn ào, không đoàn tụ như ngày tết Âm lịch, nhưng có Lời Chúa, có lời chúc lành, có lời phó thác cho Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Điều này làm cho tết Dương lịch là cơ hội để chúng ta tiếp tục dâng lên Chúa một năm mới bằng những lời cầu nguyện. Có lẽ đây là một đóng góp âm thầm nhưng sâu sắc của Kitô giáo vào văn hóa Việt Nam rằng dạy con người bước vào tương lai với lòng tín thác, chứ không chỉ với tham vọng.
Bước vào năm 2026, có lẽ điều thú vị nhất của lịch phương Tây trong văn hóa Việt Nam chính là điều này: nó giúp người Việt học cách sống giữa truyền thống và hiện đại mà không phải đánh mất bên nào. Trong một thế giới biến động nhanh, lịch Dương giúp ta đứng đúng nhịp; trong một nền văn hóa sâu dày, lịch Âm giúp ta đứng vững gốc rễ. Hai hệ thống lịch, hai nhịp thời gian, nhưng cùng phục vụ một con người: con người Việt Nam hôm nay, vừa biết nhớ, vừa biết mơ; vừa biết cúi đầu tạ ơn năm cũ, vừa dám ngẩng đầu bước vào năm mới.
3. Chút suy tư thần học về năm mới
Năm mới là thời gian khởi đầu của một chu kỳ mới. Ngày đầu tiên của năm mới đưa chúng ta bước vào một giai đoạn mới. Tuy mỗi năm cũng có từng đó ngày, cũng từng đó thời gian, nhưng hẳn là trong lịch sử của mỗi người luôn có cái mới. Trong Kinh thánh cũng thế. “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Đó là khởi đầu của công trình sáng tạo. Danh từ chỉ thời gian “רֵאשִׁית-lúc khởi đầu” đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của vũ trụ và cũng là khởi điểm của thời gian. Các nhà chú giải Kinh thánh cho rằng “lúc khởi đầu” này có nghĩa là thời gian xuất hiện với công cuộc tạo thành[5].
Trong ý nghĩa Thánh kinh, “khởi đầu” nghĩa là đi liền với sáng tạo. Cái mới cho chúng ta thấy viễn cảnh của một chu kỳ mới. Trong trình thuật Sáng thế, hẳn nhiên Thiên Chúa có trước “lúc khởi đầu”. Đối với Thiên Chúa, thời gian không có khởi đầu và kết thúc. Thiên Chúa thì vĩnh hằng, trường tồn và luôn mới. Điều này được tác giả Thánh vịnh định nghĩa như sau: “Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa. Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời.” (Tv 93,2). Nhờ cách hiểu này mà chúng ta có thể trả lời được câu hỏi: “Thiên Chúa đến từ đâu?” và “Ai đã tạo ra Chúa?” Câu trả lời được tìm thấy trong định nghĩa về Chúa, rằng Chúa là Đấng không được tạo ra, vĩnh cửu. Ngài là khởi đầu và là cùng đích (Ego sum Alpha et Omega, Principium et Finis, Primus et Ultimus). Hoặc nói như ngôn ngữ của giáo sư Kinh thánh James Edwin Orr: “Thiên Chúa là duy nhất, vô hạn, vĩnh cửu và không thay đổi. Ngài là Đấng hoàn hảo mà trong đó mọi sự đều bắt đầu, tiếp tục và kết thúc”[6].
Hẳn nhiên trước lúc khởi đầu, Cựu ước không cho thấy rõ sự tồn tại của Thiên Chúa Ba Ngôi. Duy chỉ một chỗ trong Cựu ước chúng ta có thể đoán được Thiên Chúa được chia ở danh từ số nhiều: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1,26-28). Ngược lại, Tân ước qua mặc khải của Đức Giêsu, Ba Ngôi Vị hiện diện trong lịch sử thời gian rất rõ ràng: “Lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha.” (Ga 17,5); hoặc “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Như vậy, từ khởi điểm này, Thiên Chúa Ba Ngôi đã bắt đầu sáng tạo. Trước là trời đất, mặt trời (ban ngày-ánh sáng[7]), mặt trăng (ban đêm-bóng tối), và cuối cùng là con người chúng ta. Có lẽ vì điều này mà tổ tiên chúng ta đã biết cách ngắm trời trăng, thiên nhiên để hình thành niên lịch mà chúng ta gọi là lịch theo mặt trời (Dương lịch), hoặc mặt trăng (Âm lịch). Chúng ta không ngạc nhiên khi lịch Do Thái luôn mang dấu ấn của công trình sáng tạo. Chẳng hạn trong lịch Do Thái hiện đại, năm được tính là Anno Mundi (“năm của thế giới”). Điều này thể hiện số năm truyền thống kể từ khi tạo ra thế giới như được mô tả trong sách Sáng thế.
Mở ngoặt nơi đây, trong lịch sử Do Thái, Năm thánh là thời gian đặc biệt hơn một chút. Chúng ta cũng quen gọi theo tiếng Latinh là: Annum Jubilaei (Jubilee). Tiếng Hy Lạp là Ἰώβηλος đều có nguồn gốc từ bản văn Kinh thánh Do Thái: יובל (yōḇēl, có nghĩa là kêu vang từ tiếng kèn tù và làm từ sừng của con cừu). Đây là âm thanh báo hiệu một tin vui, một thời kỳ hoan hỷ. Chẳng hạn sách Lêvi ghi nhận sự kiện này: “Các ngươi sẽ thổi tù và giữa tiếng reo hò; vào ngày Xá tội, các ngươi sẽ thổi tù và trong toàn xứ các ngươi” (Lv 25,9). Khi dịch sang tiếng Latinh, thuật ngữ thêm chút ý nghĩa như là: jūbilum, khóc lóc, kêu la (thể hiện tinh thần sám hối); hoặc iūbilō, jūbilō có nghĩa là vui mừng, ca hát trong hân hoan. Nếu hiểu theo nghĩa này, năm mới chúng ta có lý do để chúc mừng năm mới, vì đây là thời gian được Thiên Chúa chúc phúc. Thực vậy, các học giả đã truy ra nguồn gốc tết Rosh Hashanah chính là lễ hội Kèn Trompet được nhắc đến trong sách Lêvi 23, 23-25 và Dân số 29,1 của Ngũ Kinh[8].
Năm mới chúng ta hãy khởi đầu với lời nguyện thật đẹp của thần học gia Karl Rahner: “Nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu, này con chiến thắng, này con chiến thắng tươi sáng hy vọng.” Có lý do để chúng ta bắt đầu trong hy vọng: Năm mới là dấu ấn để chúng ta nhớ về cội về nguồn. Thật may vì chúng ta có nguồn cội là Đấng Hằng Sống, là Đấng Sáng Tạo. Ngài luôn mới trong thời gian. Mỗi khi năm mới đến, chúng ta được nhắc về nguồn cội này. Chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng và quy hướng về Ngài.
Ước gì Ánh sáng Chúa Kitô luôn là ngọn đèn cho mỗi người bước đi trong năm mới này. Khi đó, những lời chúc trong Kinh thánh dưới đây sẽ hiện thực cho mỗi người chúng ta:
– “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn” (Is 43,19).
– “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đặt thần khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình chúng trái tim chai đá và ban cho chúng một trái tim bằng thịt” (Ed 11,19).
– “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5,17).
– “Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa” (Cl 3,10). “Này đây Ta đổi mới mọi sự.” Rồi Người phán: “Ngươi hãy viết: Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật” (Kh 21,5)