Đại Hội FABC 50: Tài Liệu Bangkok – Cùng Nhau Tiến Bước Như Các Dân Tộc Châu Á

WHĐ (25.07.2023) – Để đánh dấu cột mốc 50 năm thành lập (1970-2020), Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC) đã tổ chức Đại hội với chủ đề: “FABC 50: Cùng nhau hành trình như các dân tộc châu Á… và họ đã đi theo một con đường khác” từ ngày 12 đến 30.10.2022, tại Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận Bangkok, Baan Phu Waan, Thái Lan. Và ngày 15.03.2023, Ban tổ chức đã công bố Tài liệu Bangkok như là thành quả của Đại hội FABC 50. Sau đây là toàn văn Tài liệu bản dịch Việt ngữ do Linh mục Micae Nguyễn Khắc Minh chuyển ngữ và Minh Đức hiệu đính.

* * *

CÙNG NHAU TIẾN BƯỚC NHƯ CÁC DÂN TỘC CHÂU Á
“… và họ đã đi một con đường khác” (Mt 2,12)

ĐẠI HỘI FABC 50

Kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hội đồng Giám mục Á Châu (FABC)

TÀI LIỆU BANGKOK – THÁI LAN
Ngày 15.03.2023

 

DẪN NHẬP

  1. Làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả con người và đối với tạo vật của Ngài là sứ mệnh của các môn đệ Chúa Giêsu Kitô, khi cùng nhau tiến bước với tư cách là các dân tộc Châu Á. Thật vậy, trong giao ước với Nôê, tình yêu của Thiên Chúa bao trùm mọi dân tộc và toàn thể tạo vật. Quan tâm đến tất cả bằng tình yêu của một người cha nhân từ và một người mẹ yêu thương, Thiên Chúa mở ra những con đường mới cho cuộc hành trình của chúng ta trong thời điểm hiện tại có nhiều thử thách và khủng hoảng.

  2. Bước theo dấu chân của các Đạo sĩ, Đại hội của Liên Hội đồng Giám mục Á Châu  FABC lần thứ 50 mời gọi chúng ta bắt đầu một cuộc hành trình, cùng nhau vạch ra con đường, theo “ngôi sao” của Thiên Chúa trong thời hiện tại của chúng ta, giải thích các dấu chỉ của thời đại. Câu chuyện của Thánh Matthêu kể về cuộc hành trình của các nhà đạo sĩ (x. Mt 2,1-12) đã trở thành hướng dẫn cho Đại hội đầu tiên của FABC, được triệu tập tại Bangkok từ ngày 12 đến ngày 30 tháng 10 năm 2022 nhân dịp Kỷ niệm 50 năm thành lập FABC. Tác giả Tin Mừng thuật lại việc các đạo sĩ, được dẫn dắt bởi một ngôi sao, cùng nhau dấn thân vào một cuộc hành trình phiêu lưu. Điều này đã truyền cảm hứng cho chủ đề lễ mừng Kim khánh của chúng ta, “Cùng Nhau Tiến Bước Như Các Dân Tộc Châu Á,”… và họ đã đi một con đường khác” (Mt 2,12). Chúng tôi thấy thời điểm hiện tại là một thời điểm thuận lợi để phân định và thực hiện những con đường mới nhằm đổi mới thực sự sứ mệnh và thừa tác vụ của chúng ta ở Châu Á để làm cho Tin Mừng trở nên sống động và mang lại sự sống cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho những người ở ngoại vi và cho mẹ Trái đất đang rên rỉ bởi những vết thương bị khai thác và bóc lột (cf Laudato Si [LS], 49).

  3. Châu Á là lục địa của những truyền thống tôn giáo vĩ đại và của những dân tộc đa văn hóa cùng chia sẻ công cuộc tìm kiếm hòa bình, công lý và hòa giải. Dựa trên Tin Mừng, Giáo hội Công Giáo tham gia vào nhiệm vụ chung này. Là một thiểu số ở Châu Á, Giáo hội chia sẻ niềm vui và nỗi đau khổ của các dân tộc chúng ta. Đoàn kết với tất cả các lực lượng xã hội, các tổ chức, xã hội dân sự và tất cả những người có thiện chí, chúng ta đóng góp nỗ lực của mình để chuyển từ hoàn cảnh đời sống chính trị-kinh tế-xã hội hiện tại sang một thế giới trong đó phẩm giá và quyền của tất cả mọi người được thăng tiến và tôn trọng. Chúng ta muốn người dân của chúng ta có thể hy vọng một lần nữa và thông qua việc sống cùng nhau trong tình liên đới và hòa hợp, cảm nghiệm được tình yêu vô tận của Thiên Chúa.

  4. Và vì thế, giống như các Đạo sĩ, chúng tôi với tư cách là giám mục của Châu Á và là đại diện của Dân Chúa, đã cùng nhau quy tụ để đọc những dấu chỉ của thời đại, để phân định, tìm kiếm sự hướng dẫn và khám phá những con đường mới. Chúng tôi nhớ đến một số thời kỳ Truyền Giáo tại Châu Á, trong đó có thời kỳ Matteo Ricci và những người khác giống như ông, đã loan báo Tin Mừng không theo cách gắn liền với các nền văn hóa của quốc gia gốc xuất xứ của họ, nhưng theo những cách thực sự hội nhập văn hóa. Một mặt, ghi nhận sự đa dạng về văn hóa của các dân tộc châu Á và mặt khác là những thực tế, thách đố và hy vọng mới nổi của các dân tộc, chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình cùng nhau, lắng nghe câu chuyện của nhau và học hỏi lẫn nhau. Chúng tôi đã cầu nguyện và cùng nhau nhận ra điều mà Thánh Thần đang nói với các hội thánh và các dân tộc ở Châu Á. Chúng tôi đã cùng nhau thờ phượng và khám phá những món quà mà Thánh Linh đã quảng đại tặng ban cho chúng tôi, để chúng tôi trao tặng lại khi khiêm tốn phục vụ lợi ích của Giáo hội và của mọi người. Cuối cùng, chúng tôi đã chuyển sang những con đường mới cho phép chúng ta sống một cuộc sống con người trọn vẹn. Được tái khẳng định, đổi mới và hồi sinh thông qua Đại hội này, một mặt chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình hiệp hành với các cộng đồng, giáo xứ, giáo phận, hội đồng giám mục, và mặt khác là với các dân tộc của chúng ta ở Châu Á. Thiên Chúa, trong tình yêu của Người, mời gọi chúng ta lên đường cùng với Người xây dựng các xã hội và cộng đồng Kitô giáo không bỏ lại ai phía sau. Là một Giáo hội ở lục địa này, được kết nối với Giáo hội hoàn vũ, chúng ta muốn đóng góp cho một Châu Á tốt đẹp hơn, cho một nhân loại hòa bình, công bằng và hài hòa hơn và biết bảo vệ thiên nhiên.

  5. Tin Mừng thúc bách chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, dám vượt qua các biên giới – như các Đạo sĩ đã làm – từ bỏ những cấu trúc bất công của cuộc sống và cùng nhau dấn thân vào một cuộc hành trình tìm kiếm ý nghĩa và mục đích chung, khi chúng ta tham gia vào dự án của Thiên Chúa là xây dựng sự sống viên mãn (x. Ga 10,10), công lý và hòa bình. Lấy hành trình của các nhà đạo sĩ làm khuôn khổ, chúng tôi trình bày Tài liệu Cuối cùng này của Đại hội FABC 50 thành năm phần:

  6. Cùng nhau tiến bước

  7. Nhìn vào những thực tế đang nổi lên tại Châu Á

  8. Phân định

  9. Trao tặng những món quà

  10. Mở ra những con đường mới.

PHẦN THỨ NHẤT: CÙNG NHAU TIẾN BƯỚC

Đáp lại lời kêu gọi của tính hiệp hành

  1. Rời bỏ mảnh đất quen thuộc để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa, như các tổ phụ dân Do Thái đã từng làm, các Đạo sĩ rời bỏ vùng an toàn của họ và thấy mình là những người “cùng nhau lên đường”, trong cuộc tìm kiếm chung của họ về Thiên Chúa, Đấng đã mời họ làm những gì chính Ngài đã làm. Tục ngữ Trung Quốc có câu: “Hành trình vạn dặm bắt đầu từ một bước chân”. Bước đầu tiên bắt đầu câu chuyện cứu chuộc của chúng ta là việc Thiên Chúa chủ động bước đi với con người trong Vườn Địa Đàng (x. St 3,8). “Bước đi” đó đạt tới tột đỉnh khi Thiên Chúa đến ở giữa chúng ta như một người giống chúng ta mọi sự, trừ tội lỗi (x. Dt 4,15).

  2. Được mô tả trong Tin Mừng Mátthêu như là đại diện của dân ngoại, các đạo sĩ không thể không nhắc nhở chúng ta về hành trình của chính chúng ta với tư cách là một Giáo hội ở Châu Á. Những hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng, với tình yêu bao la của Ngài, đã mặc khải cho chúng ta khuôn mặt của Thiên Chúa như Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Ngài không chỉ mời chúng ta đồng hành với Ngài; Chính Ngài còn là ĐƯỜNG dẫn chúng ta trở về nhà Cha (x. Ga 14,6)

  3. Khát vọng của chúng ta về tính hiệp hành đi kèm với một hành động tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng chủ động bước đi với chúng ta và mời gọi chúng ta “bước đi trong khiêm nhường” với Ngài (x. Mk 6,8). Ngài tỏ mình cho mọi người thành tâm lên đường tìm kiếm Ngài. Ngài cho tất cả những người thiện chí nhìn thấy ngôi sao của Ngài.

  4. Đôi khi, giống như những người nô lệ Do Thái, chúng ta bị cám dỗ bỏ dở cuộc hành trình (x. Ds 14,4). Hoặc, giống như dân Israel trước cảnh đói khát trong sa mạc, chúng ta thấy mình khao khát những nồi thịt của Ai Cập (x. Xh 16,3). Khi chúng ta gặp ngõ cụt hoặc những rào cản dường như không thể vượt qua, chúng ta nản lòng không muốn tiếp tục cuộc hành trình.

  5. Các Đạo sĩ vạch ra một con đường cho chính họ khi họ thực hiện chuyến đi, nhìn lên trời để được hướng dẫn. Một bầu khí cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa củng cố chúng ta để tiếp tục tiến bước trong hành trình Thượng hội đồng của chúng ta. Có thể nói, chúng ta được mời tiếp tục nhìn lên trời để cho phép “Ngôi sao Kỳ diệu, Ngôi sao Đêm… dẫn chúng ta đến ánh sáng hoàn hảo.” Nếu không, ngay cả khi cùng nhau hành trình, chúng ta có thể lạc đường”.

  6. Con đường của Chúa Kitô thường chỉ được miêu tả như một “Con Đường Thánh Giá” và dường như bị coi là một cuộc hành trình bệnh hoạn tôn vinh đau khổ và cái chết. Giống như các môn đệ, chúng ta có thể bỏ lỡ ý nghĩa của ngôi mộ trống và để cho đau buồn hay hoang mang ngăn cản chúng ta gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta có thể thấy mình đang đồng hành với nhau, nhưng giống như hai môn đệ trên đường Emmau, đi sai hướng (x. Lc 24,13-35).

  7. Chính khi chúng ta đánh mất mục tiêu thực sự – loan báo Chúa Giêsu – thì chúng ta dễ bị cám dỗ bỏ cuộc. Một số môn đệ của Chúa Giêsu thấy lời hứa của Chúa Giêsu về việc ban cho chúng ta chính mình và máu của Ngài, là một “lời khó nghe”. Họ rời bỏ Ngài. Câu hỏi mà Chúa Giêsu hỏi nhóm mười hai người cũng có thể được đặt ra cho chúng ta: “Các con cũng muốn bỏ đi sao?” (Ga 6,66).

  8. Lịch sử của Giáo hội đầy rẫy những giai đoạn phân ly đáng buồn, khi thay vì đồng hành cùng nhau, chúng ta lại quyết định đi con đường riêng vì các vấn đề giáo lý, vấn đề chăm sóc mục vụ, vấn đề quản trị, v.v., và mỗi lần như thế chúng ta lại được kêu gọi trở về qua lời nói của Phêrô: “Bỏ Thầy con biết theo ai? Thầy có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,67).

  9. Giáo hội tại Châu Á đôi khi cũng lạc lối. Đã có những người tiên phong như Matteo Ricci ở Trung Quốc và Robert de Nobili ở Ấn Độ, những người đã mở ra những nẻo đường mới, nhưng nhìn chung, Giáo hội đã đi theo con đường lạc, không muốn rời bỏ những bến đỗ trước đây của mình. Đã có những phong trào tự do có tầm vóc lớn được Giáo hội hỗ trợ như Cách mạng Edsa (Cách mạng Quyền lực Nhân dân) năm 1986 ở Philippines và những nhân vật tiên tri gần đây ở Myanmar và những nơi khác; nhưng tiếng nói tiên tri của Giáo hội đôi khi bị im bặt. Đôi khi, Giáo hội cũng đã quá thận trọng trong việc đấu tranh cho nhân quyền.

  10. Trong suốt Đại hội FABC 50 tại Bangkok này, chúng ta đã nỗ lực như các Đạo sĩ để tìm ra những con đường mới. Chúng ta đã được hướng dẫn để làm điều mà Phêrô đã làm tại Công đồng Giêrusalem đầu tiên (Công vụ 15), khi một số người phản ứng lại việc Phaolô tiếp cận với dân ngoại, muốn hạn chế sứ mệnh truyền giáo cho những người Do Thái cải đạo. Đảm nhận vai trò lãnh đạo của mình, tại Công đồng Giêrusalem, Phêrô đã đứng giữa Giacôbê và Phaolô và chủ động giữ họ lại với nhau / (x. Cv 15).

  11. Con đường mới được đề xuất cho Giáo hội là con đường HIỆP HÀNH. Có ba yếu tố thiết yếu của một giáo hội hiệp hành: HIỆP THÔNG, THAM GIA, SỨ VỤ.[1]

  12. HIỆP THÔNG thì tương phản với xu hướng độc quyền của chúng ta. Mọi thành viên đã được rửa tội đều bình đẳng về phẩm giá. Chúng ta có thể đảm nhận những vai trò khác nhau, nhưng với tư cách là thành viên đã được rửa tội, tất cả chúng ta đều là “dòng giống được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân riêng của Thiên Chúa” (1 Pr 2,9). Không có thành viên hạng nhất và hạng hai trong Giáo hội. Chúa Thánh Thần tiếp thêm sức mạnh để chúng ta bước vào sự hiệp thông không chỉ giữa anh chị em Công giáo chúng ta mà còn với mọi Kitô hữu, mọi con người và mọi thụ tạo. Chúng ta không thể là tác nhân của sự hiệp thông nếu không nhờ vào Thần Khí của sự hiệp thông mà chúng ta đã lãnh nhận khi rửa tội. Chỉ trong sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần, chúng ta mới có thể phát triển thành các cộng đồng môn đệ và trở thành những người xây dựng các cộng đồng Kitô hữu cơ bản và các cộng đồng Nhân loại, những người hoạt động như men trong một khối bột nhào.

  13. SỰ THAM GIA là dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy thân thể của Đức Kitô đang sống và mỗi bộ phận đều được sinh động bởi cùng một Thánh Thần. Điều có thể cản trở việc tham gia vào Giáo hội là vấn đề “quyền lực”.[2]Khi vai trò của hàng giáo sĩ biến thành địa vị quyền lực, thì có khuynh hướng ngăn cản các phần khác của nhiệm thể Chúa Kitô thực hiện vai trò thích hợp của chúng theo đặc sủng của từng người. Do đó, Giáo hội bị giảm xuống thành một giáo hội  ‘giáo sĩ trị’. Khi vai trò chính của thừa tác vụ có chức thánh là thúc đẩy và liên kết các thừa tác vụ khác và điều phối chúng để xây dựng Giáo hội, cuối cùng lại trở thành lãnh đạo độc quyền, thì chúng ta cần được nhắc nhở về lời khuyên của Chúa Giêsu cho Giacôbê và Gioan: “Giữa anh em thì không phải như vậy, ai muốn làm lớn thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20,26). Quyền lãnh đạo phải luôn được thực thi trong tinh thần phục vụ, tham gia vào sự lãnh đạo của Đấng đến “không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Mc 10,45)

  14. Và cuối cùng, SỨ VỤ ngược lại với khuynh hướng của chúng ta đối với điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là “quy ngã”. Chúng ta trở nên quy ngã khi quên rằng chúng ta không tồn tại cho chính mình mà là cho thế giới. Điều này xảy ra khi các thừa tác vụ của chúng ta chủ yếu được thiết lập để chỉ phục vụ cho Giáo hội mình, thay vì phục vụ xã hội như một phần của Giáo hội tôi tớ.

  15. Dọc theo hành trình, chúng ta bị thách đố bởi nhiều ‘Hêrôđê’. Do đó, chúng ta không được tự mãn; chúng ta cần tránh xu hướng phổ biến là cứ lo bảo tồn,chỉ đi theo con đường quen thuộc.

  16. Vào ngày kết thúc Đại Hội của chúng tôi, Đức Hồng y  Luis Antonio Cardinal Tagle, Đại diện Đức Thánh Cha nêu lên trước mắt chúng ta một thử thách quan trọng. Nhận thức được tầm nhìn của FABC về một Giáo hội tham gia vào việc truyền giáo thông qua cuộc đối thoại tam diện (với các tôn giáo, với các nền văn hóa và với người nghèo), Đức Hồng y Tagle chỉ ra rằng đối thoại thường chỉ được hiểu là song phương, nghĩa là một nỗ lực giữa hai bên. Ngài đặt ra thách đố khám phá những cách thức mới để tham gia vào cuộc đối thoại đa phương, loại hình mà chúng ta có thể gọi là “đa thoại” hoặc loại hình đòi hỏi chính xác tinh thần hiệp hành vốn đã mang lại cho Đại hội FABC 50 đặc biệt này tính chất mới mẻ nhất. Ngài nói rằng chúng ta cần phải coi trọng hơn về mặt tâm linh, lối sống và sống đối thoại trong các Giáo hội địa phương,ad intra(trong nội bộ), giữa chúng ta và ad extra (hướng ra ngoài) trong tương quan với các xã hội đa dạng ở Châu Á mà chúng ta hoạt động.

  17. Không phải chỉ các giám mục hoặc các nhà lãnh đạo có chức thánh mới cần hiệp hành. Nếu tính hiệp hành liên quan đến việc thúc đẩy sự hiệp thông, sự tham gia và sứ vụ trong Giáo hội, thì chúng ta, Giáo hội ở Châu Á, phải đảm bảo rằng chúng ta có thể phân định  “sensus fidelium” (cảm thức của các tín hữu) thông qua các cuộc thỉnh vấn hiệp hành và các dịp phân định cộng đồng, vốn không chỉ có sự tham gia của các giám mục mà cả các tín hữu nữa – giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ – cũng như các thành phần khác của xã hội có ảnh hưởng đến đời sống và sứ vụ của Giáo hội. Giáo hội tại Châu Á phải thường xuyên nhắc nhở mình về những lời của ngôn sứ Isaia 54,2 đã được sử dụng làm tiêu đề của tài liệu Thượng hội đồng cho Giai đoạn châu lục: “Hãy nới rộng lều ngươi đang ở”.

PHẦN THỨ HAI: NHÌN VÀO NHỮNG THỰC TẾ ĐANG NỔI LÊN TẠI CHÂU Á

Nhận ra những thách đố mà Giáo hội tại Châu Á đang phải đối mặt

  1. “Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem xứ Giuđê, vào thời vua Hêrôđê, có các đạo sĩ từ phương đông đến Giêrusalem hỏi rằng: Vua dân Do Thái mới sinh ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người mọc lên, nên đến để bái lạy Người” (Mt 2,1-2). Thánh Matthêu mô tả đặc điểm của những người dân ngoại tìm kiếm Chúa là “đạo sĩ”, tức là những người khôn ngoan, những người nỗ lực và dành thời gian để “ngước nhìn” lên bầu trời và ngắm nhìn các vì sao. Điều này cho thấy rằng họ đã chiêm niệm và thấy được ánh sáng hướng dẫn từ trời cao về những mối quan tâm của họ trên trái đất.

  2. Giáo hội tại Châu Á có thể liên quan chặt chẽ với sự tìm kiếm mà các Đạo sĩ đã khởi phát. Thánh sử mô tả họ theo cách gần giống với tính cách chiêm niệm của người Châu Á. Chúng ta có thể hình dung họ cùng nhau đi trong im lặng, đặt câu hỏi khi cần và tìm kiếm sự hướng dẫn từ cả thần linh và con người.

  3. Giống như các Đạo sĩ, các Giám mục chúng tôi, quy tụ tại Đại hội FABC 50, tìm kiếm sự hướng dẫn của  con người nơi các chuyên gia – nhà xã hội học, chuyên gia môi trường, nhà kinh tế học, nhà khoa học chính trị, nhà thần học, nhà tâm lý học, luật sư, nhà hoạt động, những người có thể hướng dẫn chúng tôi hiểu rõ hơn về những thực tế đang nổi lên ở lục địa này. Trên hết, chúng tôi đã tìm kiếm sự hướng dẫn thiêng liêng. Chúng tôi chắc chắn rằng mình đã cầu nguyện trong thinh lặng mỗi khi nhìn vào thực tế nhiều mặt và đa dạng của Châu Á. Mỗi phiên họp buổi sáng đều bắt đầu với giờ kinh sáng mang tính hội nhập văn hóa và những suy niệm Kinh Thánh theo bối cảnh. Chính bầu khí cầu nguyện được duy trì lâu dài đã giúp chúng tôi có thể nhìn những thực tế đang nổi lên từ góc độ đức tin và tâm linh.

  4. Các Đạo sĩ “khôn ngoan” không chỉ vì họ nhìn lên trời, mà còn vì họ nhìn quanh để tìm kiếm lời khuyên. Bản thân chúng tôi đã tìm kiếm rất nhiều trong Đại hội FABC 50 này, khi chúng tôi cầu nguyện, suy niệm Kinh Thánh và chia sẻ thiêng liêng với hy vọng rằng những điều này có thể mang lại cho chúng tôi cái nhìn thích hợp trong việc nhìn nhận tình hình hiện tại của chúng tôi ở Châu Á, một quan điểm vừa từ con người vừa là thiêng liêng, quan điểm của Thiên Chúa Nhập Thể làm người.

  5. Tương tự như vậy, chúng tôi đã nhìn lại rất nhiều điều về cội nguồn lịch sử[3]và sự phát triển của các Giáo hội địa phương của chúng tôi, đặc biệt là trong các ‘chuyến thăm ảo’ của chúng tôi tới mọi quốc gia ở Châu Á. Một số tại đó, chẳng hạn như Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và Campuchia, thực sự đã được tưới bằng máu của những vị tử đạo. Mỗi ‘chuyến thăm’ khiến chúng tôi hiểu và đánh giá cao sự khởi đầu của đức tin Kitô giáo ở các quốc gia khác nhau tại Châu Á, các nhà truyền giáo đầu tiên đã chuẩn bị nền tảng cho những hạt giống đầu tiên của Tin Mừng.[4]Mỗi cuộc ‘viếng thăm’ đã mở rộng tầm mắt của chúng tôi trước những thực tế vừa hy vọng vừa đau thương đang xuất hiện và tác động đến các Giáo hội địa phương của chúng tôi. Chúng tôi cũng có cơ hội lắng nghe tiếng nói hiếm khi được lắng nghe từ các giáo xứ và các khu vực khác nhau ở nhiều quốc gia đa dạng ở Châu Á.

  6. Chúng tôi ghi nhận rằng Giáo hội đang âm thầm phát triển ở nhiều quốc gia châu Á từng thù nghịch với đức tin Kitô giáo. Chúng tôi đã nghe tường trình về các chính phủ đã hoan nghênh những đóng góp tích cực của các Giáo hội địa phương trong việc xây dựng quốc gia, phát triển con người, giáo dục, chăm sóc môi trường, chống nạn buôn người,[5]truyền thông xã hội, v.v… Các anh em Giám Mục từ Hàn Quốc đã khai sáng chúng tôi bằng cách chọn sử dụng từ vựng “các tôn giáo láng giềng” thay vì “các tôn giáo khác”. Người Indonesia đã truyền cảm hứng cho chúng tôi bằng một biểu tượng lâu dài về sự hòa hợp giữa các tôn giáo trong “đường hầm của tình bạn” nối liền Nhà thờ Hồi giáo Istiqlal dưới lòng đất với Nhà thờ Chính tòa Đức Mẹ Thăng Thiên ở Jakarta. Giáo hội Mông Cổ non trẻ, mặc dù hoạt động chủ yếu như một tổ chức phi chính phủ, đã có quan hệ đối tác thân thiện với chính phủ Mông Cổ. Tại một số quốc gia ở Châu Á, Giáo hội đã chủ động tiếp cận khi hợp tác với các cơ quan chính phủ và xã hội dân sự trong việc đối phó với đại dịch Covid 19.

  7. Mặt khác, chúng tôi đã nghe nói về những tình huống bất lợi tại một số Giáo hội địa phương ở Châu Á đang đối phó với sự xói mòn tự do tôn giáo, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, luật pháp đe dọa quyền tự do lương tâm và tín ngưỡng, các cuộc tấn công khủng bố do chủ nghĩa cực đoan tôn giáo thúc đẩy và sự trỗi dậy của các chính phủ dân túy và độc tài sử dụng mạng xã hội để đưa thông tin sai lệch. Bất chấp việc mang tiếng là tham nhũng có hệ thống và vi phạm nhân quyền, họ vẫn xoay sở để khiến mọi người bỏ phiếu cho mình. Nghịch lý thay, dường như lại có một sự mê hoặc đối với chế độ độc đoán và sự chịu đựng đối với việc thiếu tôn trọng các quyền tự do dân sự.

  8. Chiều rộng và chiều sâu của Châu Á khiến cho việc hiểu được tính đa dạng của các vấn đề tác động đến lục địa rộng lớn này thực sự khó khăn. Vì vậy, chúng tôi tập trung vào những gì gây ấn tượng với chúng tôi như những thực tế có tác động mạnh nhất trong các xã hội châu Á. Từ những thực tế này, chúng tôi đã xác định 9 ưu tiên chính:

  9. Người di cư, người tị nạn và người bản địa, thường phải rời bỏ quê hương của họ

  10. Gia đình, nền tảng của xã hội

  11. Vai trò ngày càng tăng của Phụ nữ trong các xã hội Châu Á đang thay đổi nhanh chóng

  12. Các vấn đề giới tính mà Giáo hội và xã hội phải đối mặt

  13. Người trẻ trước một thế giới mới

  14. Tác động của Công nghệ số

  15. Thúc đẩy một nền kinh tế công bằng trong bối cảnh Đô thị hóa và Toàn cầu hóa

  16. Cuộc khủng hoảng khí hậu gây nguy hiểm cho ngôi nhà chung của chúng ta

  17. Đối thoại liên tôn nhằm mang lại hòa hợp và hòa bình ở lục địa Châu Á

A. NGƯỜI DI CƯ, TỊ NẠN VÀ NGƯỜI BẢN ĐỊA THƯỜNG PHẢI RỜI BỎ QUÊ HƯƠNG

  1. Giống như Thánh Gia đã phải chạy trốn khỏi Bêlem và tị nạn ở Ai Cập, nhiều người nghèo ở Châu Á đã phải ra đi, trở thành di dân trong nước hay di dân nước ngoài. Người ta chỉ ra rằng đến năm 2050 sẽ có hơn 400 triệu người di cư trên toàn thế giới. Mặc dù chúng tôi thừa nhận quyền di cư của mọi người để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn cho gia đình họ, nhưng chúng tôi nhận thức được những tác động bất lợi của việc chảy máu chất xám kéo theo đó. Sự di cư liên tục của các chuyên gia – như y tá, bác sĩ, điều dưỡng viên, kiến trúc sư và kỹ sư – sang các nước khác không thể không làm trầm trọng thêm tình trạng kém phát triển ở nước họ.

  2. Châu Á là nơi bùng nổ ngành công nghiệp di cư, hoạt động cả hợp pháp và bất hợp pháp bằng cái giá phải trả rất cao về giá trị con người. Cuộc sống gia đình bị xáo trộn; trẻ em bị bỏ rơi; kết cấu xã hội đang dần bị xói mòn. Đối với một số quốc gia, kiều hối của người di cư là một đóng góp lớn cho nền kinh tế của họ. Điều này giải thích cho chính sách của chính phủ một số nước đang phát triển khuyến khích người lao động đi làm việc ở các nước khác gây phương hại đến sự phát triển của nước họ. Trong khi những người di cư gửi về quê hương những đồng tiền mà họ vất vả kiếm được và giúp đỡ nền kinh tế của họ, hầu như không có khoản tiền nào được chính phủ nước sở tại đầu tư vì lợi ích của chính những người lao động nhập cư, một số người thậm chí đã phải bán đất của mình để có thể làm việc ở nước ngoài.

  3. Những câu chuyện khủng khiếp về lạm dụng và bóc lột mà nhiều người đã trải qua chỉ chứng minh rằng chế độ nô lệ vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả trong thế kỷ 21. Chúng tôi đặc biệt nghĩ đến người Ấn Độ, người Philippines, người Pakistan, người Bangladesh và người Sri Lanka sống với tư cách là công nhân hợp đồng ở các quốc gia vùng Vịnh hoặc ở các quốc gia công nghiệp hóa hơn ở Châu Á. Thông thường, họ bị đối xử như những người nước ngoài không được mong đợi, mặc dù thực tế là họ đóng góp cho nền kinh tế của các thành phố và quốc gia sở tại. Nhiều người trong số họ, bị tách khỏi gia đình, phải vật lộn với sự cô đơn. Trong cuộc đấu tranh để đối phó với nỗi nhớ nhà, một số người thấy mình vướng vào các mối quan hệ ngoài hôn nhân dẫn đến hoàn cảnh gia đình phức tạp.

  4. Chúng tôi nghĩ đến nhiều người phải di tản vì các cuộc xung đột vũ trang ở Myanmar và các nơi khác, những người tị nạn chính trị đang xin tị nạn để tránh bị đàn áp chính trị. Một số người trong số họ, nhập cư vào các quốc gia khác với tư cách là người nước ngoài bất hợp pháp, tìm cách trốn tránh cơ quan nhập cư vì sợ bị trục xuất. Không có giấy tờ và không có tư cách pháp nhân, nhiều người bị bóc lột sức lao động với đồng lương rẻ mạt mà không được hưởng bất kỳ phúc lợi xã hội nào, và không thể sử dụng các dịch vụ công cộng, chẳng hạn như giáo dục và chăm sóc sức khỏe.

  5. Nhiều người nhập cư làm các công việc tay nghề thấp. Trong số đó hầu hết không có hợp đồng cố định, nhận mức lương bất công và phải chịu đựng những điều kiện làm việc tồi tệ. Việc thiếu quản lý và luật pháp về phúc lợi của người lao động nhập cư, chẳng hạn như quyền tự do thành lập hoặc tham gia công đoàn, là một trong nhiều vấn đề mà các chính phủ cần quan tâm. Phụ nữ nhập cư thường phải chịu những hình thức quấy rối và lạm dụng tồi tệ nhất, đồng thời thường ít được bảo vệ nhất và được trả lương thấp nhất. Thật đáng khích lệ khi thấy các tổ chức quốc tế và quốc gia bảo vệ quyền của người lao động nhập cư, lắng nghe khiếu nại của họ và kháng cáo cho các vụ án  của họ.

B. GIA ĐÌNH, NỀN TẢNG CỦA XÃ HỘI

  1. Gia đình là một phần không thể thiếu của xã hội. Gia đình là nơi đầu tiên các giá trị và nhân đức được dạy dỗ, là nơi đầu tiên cảm nghiệm được tình yêu thương và sự hy sinh, là nơi đầu tiên học được lòng chung thủy và sự tha thứ. Hầu hết người Á Châu coi cuộc sống gia đình hòa thuận là một phúc lành.

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: Gia đình là “nơi bình thường mà người trẻ lớn lên để trưởng thành về mặt cá nhân và xã hội” và là “nơi mang di sản của chính nhân loại”, “gia đình chiếm một vị trí rất quan trọng trong các nền văn hóa Á Châu…” (Ecclesia in Asia [EA], 46).

  1. Tuy nhiên, các gia đình tại Châu Á hiện đang phải đối mặt với nhiều thách đố đe dọa sự yên bình, ổn định và hiệp nhất của họ. Cái chết do thảm kịch của con người, bạo lực, chiến tranh và thiên tai khiến một số trẻ em không còn cha hoặc mẹ. Di cư để làm việc ở các trung tâm đô thị và nước ngoài buộc các thành viên trong gia đình phải ly biệt. May mắn thay, sự hỗ trợ của những người thân (ông bà, chú bác, cô dì, anh chị, em họ, v.v.), thường giúp những đứa trẻ bị bỏ lại đương đầu với những khó khăn và giúp chúng thấm nhuần các giá trị truyền thống. Mặc dù người Á Châu tin rằng trẻ em hạnh phúc nhất khi được nuôi dạy bởi cả cha và mẹ, nhưng họ vẫn ủng hộ những bà mẹ đi làm, những người chồng nội trợ và cha mẹ đơn thân. Bất cứ nơi nào có thể, cha mẹ hoặc người thay mặt cho họ sẽ chu cấp việc giáo dục con cái của họ. Các trường phổ thông, cao đẳng và đại học của Giáo hội đóng góp đáng kể vào hệ thống giáo dục tư.

  2. Trong khi hôn nhân hỗn hợp Kitô giáo và hôn nhân khác tôn giáo chắc chắn gây ra một số vấn đề, chúng cũng được coi là trường học đầu tiên của công cuộc đại kết và đối thoại liên tôn. Quan tâm đến phúc lợi và tương lai của gia đình mình, người trẻ và người già đều tham gia vào xã hội và thúc đẩy việc chăm sóc trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta.

  3. Ở những khu vực được tiếp cận nhiều hơn với phương tiện truyền thông xã hội, thái độ đối với gia đình đang bị ảnh hưởng xấu bởi quá trình toàn cầu hóa văn hóa (EA,39). Hơn nữa, các chính sách kiểm soát dân số của chính phủ cũng tác động lớn đến thái độ đối với hôn nhân, sinh đẻ và nuôi dạy con cái.

C. VAI TRÒ NGÀY CÀNG TĂNG CỦA PHỤ NỮ TRONG CÁC XÃ HỘI CHÂU Á ĐANG THAY ĐỔI NHANH CHÓNG

  1. Tài liệu Hướng dẫn Đại hội FABC 50 nêu rõ: “Chúng tôi vẫn nghe được những câu chuyện về phân biệt đối xử, bạo lực và áp bức đối với phụ nữ trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống trên khắp Châu Á. Khả năng lãnh đạo của họ đã bị đánh giá thấp, những đóng góp của họ bị phớt lờ và một số xã hội vẫn coi phụ nữ là những người thấp kém. Chúng tôi có nhiều báo cáo về những thành kiến đối với phụ nữ liên quan đến chênh lệch tiền lương, luật sở hữu và thừa kế, cơ hội giáo dục cho trẻ em gái, nạo thai nhi nữ, ít được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe, ra quyết định và trong nhiều lĩnh vực khác. Đáng báo động là bạo lực dựa trên giới tính vẫn tiếp tục tồn tại và các vấn đề về giới tính phần lớn chưa được thừa nhận”[6].

  2. Phụ nữ Á Châu thường bị gạt ra ngoài lề trong Giáo hội và xã hội vì não trạng gia trưởng của một số người trong Giáo hội và vì quan niệm về sự trong sạch và những điều cấm kỵ trong một số tôn giáo Á Châu và một số nền văn hóa Nam Á. Mặc dù nhiều giáo huấn của Giáo hội, chẳng hạn như Thư của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II,Mulieris Dignitatem(Phẩm Giá Phụ Nữ) [MD], và Tông Huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám mục của Đức Thánh Cha Phanxicô, Christus Vivit [CV], nhấn mạnh đến phẩm giá của phụ nữ,[7] nhưng vẫn còn một khoảng cách lớn giữa lý thuyết và thực tế. Mặc dù chắc chắn phụ nữ chiếm đa số trong việc linh hoạt giáo xứ, nhưng họ không được tham gia tương xứng đối với việc đưa ra quyết định trong Giáo hội. Việc phụ nữ chấp nhận các giá trị và thái độ gia trưởng cũng là một yếu tố quan trọng cản trở phẩm giá và sứ mệnh của phụ nữ trong Giáo hội. Sự đau khổ của họ có liên quan đến phân biệt giới tính, phân biệt giai cấp và phân biệt chủng tộc

  3. Tuy nhiên, mọi thứ đang thay đổi. Một khảo sát gần đây của Trung tâm Nghiên cứu Pew[8]đã ghi nhận một số cải thiện về bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Ví dụ, phụ nữ ở Châu Á đã trải qua một chặng đường dài để được lắng nghe và công nhận về giá trị nội tại của họ. Họ đã đảm nhận những trách nhiệm mà theo truyền thống được trao cho nam giới và tiếp tục vượt lên những thách đố của một xã hội gia trưởng. Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta: “Đòi hỏi các quyền hợp pháp của phụ nữ phải được tôn trọng, dựa trên niềm xác tín vững chắc rằng nam nữ bình đẳng về phẩm giá, đặt ra cho Giáo hội những câu hỏi sâu sắc và đầy thách đố về cấp độ xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo mà chúng ta không thể coi nhẹ và lẩn tránh” (Evangelii Gaudium [EG], 104). Phụ nữ mơ về một xã hội khác, nơi chẳng còn cơ cấu phẩm trật nào áp bức họ.

D. CÁC VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH MÀ GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI PHẢI ĐỐI MẶT

  1. Người LGBTQI+ rất thường bị gạt ra ngoài lề xã hội và phải đối mặt với nhiều hình thức kỳ thị và phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục, bản dạng giới và biểu hiện khác biệt của họ.[9]Ví dụ, trong khi Georgia, Singapore và Thái Lan tỏ ra khoan dung đối với các mối quan hệ đồng tính; thì Afghanistan, Brunei, Iran, Qatar, Ả Rập Saudi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Yemen lại khẳng định rằng hoạt động tình dục đồng giới có thể bị trừng phạt bằng án tử hình.[10]Tương tự, sau khi Taliban tiếp quản Afghanistan vào năm 2021, những người LGBTQI+ càng cảm thấy khó sống yên bình hơn[11].

  2. Tờ Economist, thông qua một cuộc khảo sát được thực hiện vào năm 2019, đã tuyên bố rằng trong khi 45% số người được hỏi ở Châu Á – Thái Bình Dương tin rằng hôn nhân đồng giới là không thể tránh khỏi trong khu vực, thì 31% số người được hỏi hoàn toàn cho rằng điều đó là không thể chấp nhận được[12]. Các vấn đề về giới thực sự là vấn đề gây tranh cãi vì vậy cần được xử lý hết sức tinh tế, sáng suốt và thận trọng.

E. NGƯỜI TRẺ TRƯỚC MỘT THẾ GIỚI MỚI

  1. Người trẻ, được Liên hợp quốc định nghĩa là những người trong độ tuổi từ 15 đến 24, chiếm gần 18% dân số toàn cầu hiện nay. Phần lớn trong số 1,2 tỷ người trẻ trên thế giới ngày nay sống ở các nước đang phát triển. Năm 2005, 61,8% số người trẻ trên thế giới sống ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Do các yếu tố nhân khẩu học khác nhau, Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương gần đây đã chứng kiến một “sự bùng nổ của giới trẻ”, theo đó 20% dân số quốc gia trở lên ở độ tuổi từ 15 đến 24.

  2. Do sự kết hợp của nhiều yếu tố, thanh niên ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương ngày nay sẵn sàng hơn bao giờ hết để tham gia và hưởng lợi từ sự phát triển xã hội, kinh tế và chính trị. So với các thế hệ trước, tỷ lệ thanh niên trong vùng đã tốt nghiệp tiểu học cao hơn. Họ được giáo dục tốt hơn, với tỷ lệ nhập học chung ở cấp đại học lần lượt đạt 18% và 15% đối với nam và nữ. Trên khắp khu vực, những người trẻ đã có những sáng kiến tham gia vào sự phát triển của địa phương, quốc gia và khu vực với tư cách là những người tham gia quan trọng và bình đẳng, chứ không phải là những người ngoài cuộc thụ động không thể định hình tương lai của chính họ. “Giới trẻ Châu Á thường đi tiên phong trong việc chuyển đổi xã hội và tôn giáo ở nhiều quốc gia, lãnh đạo nhiều phong trào vận động và giải phóng xã hội khác nhau, tham gia vào các phong trào đổi mới trong Giáo hội, và nổi lên như những người lãnh đạo trong các chương trình mục vụ của Giáo hội và trong các Cộng đồng Giáo hội Cơ bản” (FABC VIII 33). Họ “đang trải qua một sự khao khát sâu sắc về các giá trị tinh thần, khi sự trỗi dậy của các phong trào tôn giáo mới chứng tỏ rõ ràng về điều này”. (EA,6). Ở người trẻ, “chúng ta có thể thấy một khao khát dấn thân cho Thiên Chúa… một lý tưởng về tình huynh đệ của con người… một ước muốn thực sự để phát triển tài năng của mình để cống hiến một điều gì đó cho thế giới của chúng ta… một sự nhạy cảm nghệ thuật đặc biệt, hoặc một khao khát hòa hợp với thiên nhiên… cần giao tiếp… một ước muốn sâu xa để sống một cuộc đời khác đi”, đó là “những điểm khởi đầu thực sự, những nguồn lực nội tại đang chờ đợi và sẵn sàng đón nhận một lời khích lệ động viên, soi sáng và khích lệ” (CV,84).

  3. Mặc dù người trẻ hiện nay có nhiều lợi thế và tài sản, nhưng họ cũng phải đối mặt với một tình huống phức tạp và phát triển nhanh chóng, nơi những cơ hội mới cùng tồn tại với những thách đố lớn. Cạnh tranh khốc liệt đang ảnh hưởng đến thị trường trong khu vực. Thanh niên thường ở trong tình trạng dễ bị tổn thương và thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết để thích ứng với môi trường kinh tế và xã hội đang thay đổi. Ví dụ, ở châu Á, thanh niên chiếm 20,8% lực lượng lao động năm 2004, nhưng thanh niên thất nghiệp chiếm gần một nửa (49,1%) số người thất nghiệp của khu vực. Thất nghiệp dài hạn dẫn đến một loạt các tệ nạn xã hội, chẳng hạn như phạm pháp và lạm dụng chất gây nghiện, mà những người trẻ tuổi dễ mắc phải và thường gây ra tình trạng bất ổn chính trị và bạo lực. Lạm dụng ma túy và các rủi ro sức khỏe khác đặc biệt cao ở những người không đi học.

  4. Trong bối cảnh không ngừng phát triển này, mục vụ giới trẻ không chỉ giới hạn ở việc cải thiện những gì đã được thực hiện trong quá khứ, mà còn bao gồm việc tìm kiếm những cách tiếp cận mới, những quan điểm thay đổi và những cơ cấu phát triển sẽ chứng tỏ sự chân thành và sẵn sàng tin tưởng và coi trọng các giá trị của họ. Hơn nữa, thay vì được gọi là tương lai của Giáo hội, những người trẻ thích tìm thấy chính mình trong đời sống và sứ mệnh của Giáo hội như hiện tại. Không có gì ngạc nhiên khi họ cảm thấy được khẳng định bởi Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã nói với họ: “Tuổi trẻ của các con không phải là một ‘thời gian chuyển tiếp’. Các con là hiện tại của Thiên Chúa và Ngài muốn các con sinh hoa trái” (CV, 178).

F. TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHỆ SỐ

  1. Kể từ buổi bình minh của thiên niên kỷ này, thế giới truyền thông và tương tác kỹ thuật số đã phát triển theo một đường cong đi lên nhanh chóng đến nỗi nó đã trở thành một phần tất yếu của cuộc sống. Số hóa đã tác động đến hầu hết các khía cạnh của cuộc sống và đã cải thiện hiệu quả và năng suất theo nhiều cách.

  2. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cũng có những thách đố. Chẳng hạn, quá trình số hóa đã làm nảy sinh các vấn đề liên quan đến an ninh cá nhân, phi cá nhân hóa và tội ác do thù ghét, tin giả, mất kết nối xã hội, bắt nạt và nghiện ngập. Hơn nữa, trong các nền tảng kỹ thuật số mới này, đặc biệt là mạng xã hội, những người sở hữu công nghệ sẽ đặt ra các quy tắc. Chủ sở hữu kiếm tiền bằng cách sở hữu dữ liệu và có quyền lực đối với người tiêu dùng. Cũng được thúc đẩy bởi quảng cáo, họ có quyền kiểm soát các câu chuyện mà họ cho phép lưu hành. Chúng tôi cũng nhận ra rằng số hóa đang được các chính phủ và tập đoàn sử dụng để phát huy quyền lực và tác động đến văn hóa. Điều thực sự đau lòng là sự phân rẽ kỹ thuật số đang nổi lên giữa những người có quyền truy cập vào các dịch vụ dựa trên Internet (giáo dục, tài chính, chính phủ, tôn giáo) và những người không truy cập. Sự tiến bộ nhanh chóng trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo cũng đặt ra những thách đố mới cho con người. Tất cả những điều này chứng tỏ sự chú ý của chúng ta khi chúng ta chuyển sang thế giới ảo và kỹ thuật số mới hơn.

  3. Chúng tôi đặc biệt chú ý đến những ảnh hưởng xấu của công nghệ kỹ thuật số đối với sự phát triển toàn diện của giới trẻ. Những người trẻ ngày nay có xu hướng nhìn vào bản thân và xây dựng bản sắc hoặc tạo ra cảm giác an toàn thông qua mạng xã hội. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, một trong những hậu quả nghiêm trọng của truyền thông kỹ thuật số đối với giới trẻ và đáng báo động là “tình trạng kém phát triển của sự đồng cảm trong giới trẻ”. Điều đáng lo ngại không kém là việc nhận ra rằng các phương tiện truyền thông kỹ thuật số đã làm suy giảm nghiêm trọng khả năng “đọc một cách nghiêm túc” của giới trẻ, khả năng này rất cần cho sự phát triển các năng lực logic, suy luận, tình cảm, phân tích và chiêm nghiệm trong tâm trí người trẻ.

  4. Các nhà lãnh đạo Giáo hội kêu gọi những người làm truyền thông Công giáo thừa nhận rằng họ cũng có ảnh hưởng và có một thông điệp hấp dẫn để loan báo. Các đề nghị của họ để truyền giáo kỹ thuật số có hiệu quả bao gồm thiết lập các nền tảng mạng xã hội an toàn của riêng Giáo hội và xây dựng các nhóm truyền thông xã hội trong các Giáo hội địa phương. Nhắc nhở các nhà lãnh đạo Giáo hội rằng trong thế giới kỹ thuật số, câu chuyện là chiến lược, họ đã đưa ra các đề nghị về một bài giáo lý sáng tạo sử dụng sức mạnh của các câu chuyện, hình ảnh, phép ẩn dụ và những thứ tương tự, để kết nối Lời Chúa với cuộc sống của mọi người một cách hiệu quả hơn. Cuối cùng, những người trẻ, những người được gọi là “người bản địa kỹ thuật số”, được kỳ vọng sẽ dẫn đầu trong thừa tác vụ này.

G. THÚC ĐẨY MỘT NỀN KINH TẾ CÔNG BẰNG TRONG BỐI CẢNH ĐÔ THỊ HÓA VÀ TOÀN CẦU HÓA

  1. Ngày nay toàn thế giới đã trở thành ngôi nhà toàn cầu to lớn. Quá trình này được gọi là toàn cầu hóa và toàn cầu hóa dẫn đến sự đồng nhất hóa văn hóa. Hiện tượng này được gọi là “Toàn cầu hóa văn hóa”, cản trở nghiêm trọng lối sống đa văn hóa của người dân Châu Á. Tuy nhiên, cũng có “Toàn cầu hóa kinh tế”, trong đó nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới gắn liền với nhau. Chúng ta nhớ lại những lời của Đức Gioan Phaolô II, trong Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 31 (1997): “Những thay đổi địa chính trị to lớn diễn ra từ năm 1989 đã kéo theo những cuộc cách mạng thực sự trong các lĩnh vực xã hội và kinh tế. Toàn cầu hóa nền kinh tế và tài chính giờ đây đã trở thành hiện thực và chúng ta đang nhận thấy ngày càng rõ ràng hơn tác động của những tiến bộ nhanh chóng liên quan đến công nghệ thông tin. Chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của một kỷ nguyên mới mang theo những hy vọng lớn lao và những vấn đề đáng lo ngại”.

  2. Một mặt, toàn cầu hóa đã gắn kết thế giới lại với nhau, cho phép người ta nhanh chóng đến cứu trợ một quốc gia bị ảnh hưởng bởi động đất hoặc thiên tai ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Mặt khác, nó đã chia rẽ thế giới. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng nới rộng. Thế giới còn lâu mới có thể, nhân danh sự phát triển, đón nhận hàng triệu người bị loại trừ. Ngày nay thị trường tiền tệ-lợi nhuận dường như là lực đẩy kinh tế quyết định. Với lòng tham muốn có thêm của cải, các thế lực toàn cầu hóa đang chiếm đoạt tài nguyên của người nghèo và bóc lột sức lao động của họ một cách bất công. Tất cả đều nhân danh sự phát triển, tiến bộ và tăng trưởng!

  3. Điều Tiến sĩ Manmohan Singh, Thủ tướng Ấn Độ lúc bấy giờ, một nhà kinh tế, đã nói về Ấn Độ, có thể áp dụng cho toàn châu Á, đó là chúng tôi “đã học được cách mang lại tăng trưởng, nhưng chúng tôi vẫn chưa đạt được thành công tương đương về tính toàn diện”[13].

  4. Do đó, đây là thách đố đối với Giáo hội tại Châu Á: làm thế nào để định hướng nền kinh tế vì lợi ích của tất cả mọi người, chứ không chỉ của một số ít, “thành phần đặc quyền đặc lợi”. Giáo hội tại Châu Á có thể tự mình thực hiện lời của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Diễn văn trước Hàn lâm viện Khoa học Xã hội, ngày 27 tháng 4 năm 2001: “Giáo hội sẽ tiếp tục cộng tác với tất cả những người có thiện chí để đảm bảo rằng người chiến thắng trong tiến trình này sẽ là toàn thể nhân loại, chứ không chỉ là một tầng lớp giàu có kiểm soát khoa học, công nghệ, truyền thông và tài nguyên của hành tinh để gây thiệt hại cho đại đa số dân chúng. Giáo hội tha thiết hy vọng rằng tất cả các yếu tố sáng tạo trong xã hội sẽ hợp tác để thúc đẩy một tiến trình toàn cầu hóa nhằm phục vụ toàn thể con người và mọi người”[14].

H. KHỦNG HOẢNG KHÍ HẬU GÂY NGUY HIỂM CHO  NGÔI NHÀ CHUNG CỦA CHÚNG TA

  1. Nếu các đạo sĩ sống ở thế kỷ 21, có lẽ họ đã không kịp đến để thờ lạy Chúa Giêsu mới sinh ở Bêlem! Họ sẽ phải đối phó, không chỉ với Hêrôđê, mà còn với điều kiện thời tiết khắc nghiệt, lũ lụt, bão tố, cháy rừng, mực nước biển dâng cao, thiếu lương thực, virus đột biến và bệnh tật mới. Tất cả những điều này sẽ cản trở cuộc tìm kiếm vị vua mới sinh của họ.

  2. Thật vậy, chúng tôi nhận ra rằng một thách đố lâu dài mà nhân loại phải đối mặt trong thế kỷ 21 là sự thay đổi khí hậu do con người gây ra và cuộc khủng hoảng sinh thái liên quan. Vô số người ở Châu Á đã phải chịu đựng những điều kiện thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, bão lụt, phá rừng và cháy rừng, và xung đột về sử dụng nước. Nguồn nước sẵn có có hệ quả trực tiếp đối với việc cung cấp thực phẩm. Châu Á là nơi có nhiều quốc gia dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu, hàng triệu người đã phải chịu đựng do mực nước biển dâng cao, ô nhiễm không khí, đất và nước, “nền văn hóa vứt bỏ”, mất đa dạng sinh học và quản lý chất thải. Tất cả những điều này là tội ác chống lại tự nhiên và các thế hệ tương lai.

  3. Thánh Phaolô viết: “Chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên xiết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22). Thông qua sự giúp đỡ của các chuyên gia được mời tham dự Đại hội này, Đại hội FABC 50 đã nhận ra rằng, thay vì trải qua những cơn đau sinh nở để chuẩn bị cho ra đời một thế giới đổi mới và tốt đẹp hơn, mẹ trái đất giờ đây lại đang “rên xiết vì những vết thương của nạn khai thác”.

  4. Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta qua Thông điệpLaudato Si’của ngài rằng chỉ khi nào chúng ta có thể biến những đau khổ của thiên nhiên và của các nạn nhân của biến đổi khí hậu thành những đau khổ của chính chúng ta (x. LS,19), khi đó và chỉ khi đó, chúng ta mới từ bỏ các mô hình sản xuất tư bản chủ nghĩa gây ra mất cân bằng sinh thái và đồng thời thực hiện nghiêm túc các biện pháp cần thiết để thay đổi lối sống của chúng ta.

  5. Qua những đau khổ mà chính chúng ta sẽ phải đối mặt, chúng ta sẽ nhận ra Hài Nhi bé nhỏ ở Bêlem nơi khuôn mặt của rất nhiều trẻ em và thanh thiếu niên ở Châu Á, những người bị tước đoạt cả phẩm giá hiện tại và tương lai do biến đổi khí hậu. Những đau khổ của Mẹ Maria và Thánh Giuse có thể nhìn thấy trên khuôn mặt của rất nhiều bậc cha mẹ không thể cho con cái họ một ngôi nhà tử tế, dinh dưỡng đầy đủ, chăm sóc sức khỏe hoặc giáo dục thích hợp. Chúng ta cũng thấy những đau khổ của Mẹ Maria và Thánh Giuse nơi các bậc cha mẹ do hoàn cảnh buộc phải di cư vì những tác động của biến đổi khí hậu đối với môi trường của họ, hoặc nơi các bậc cha mẹ phải chạy trốn khỏi bạo lực của chiến tranh và xung đột vũ trang cũng như hậu quả của các cuộc chiến, thiếu nước và xử lý chất thải nguy hại.

  6. Lắng nghe tiếng kêu của trái đất và của người nghèo, cùng với các tôn giáo láng giềng trong lục địa của chúng ta, cùng với tất cả các nhóm xã hội thiện chí và những người thực thi trách nhiệm trong lĩnh vực chính trị và kinh tế, công việc mục vụ toàn diện của chúng ta có thể mở ra những lối đi mới trên hành trình chung của chúng ta hướng tới một Châu Á tốt đẹp hơn và viễn cảnh về sự thịnh vượng của nhân loại (cf LS,49).

  7. Thật vậy, khi Giáo hội tại Châu Á đáp lại lời của Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi hoán cải sinh thái, chúng ta thức tỉnh trước sự bất công to lớn mà thế hệ hiện tại của chúng ta đang gây ra cho những người nghèo, những người dễ bị tổn thương nhất trước những thiên tai do con người lạm dụng môi trường gây ra. Hoán cải sinh thái cũng nhắc nhở chúng ta rằng khi chúng ta hủy hoại thiên nhiên, cũng là lúc chúng ta hủy hoại chính mình. Chỉ bằng cách nhận ra chúng ta có mối liên hệ mật thiết như thế nào với mọi sinh vật đồng loại và mọi sinh vật sống trên hành tinh, là ngôi nhà chung của chúng ta, thì chúng ta mới có thể bắt đầu thực hiện vai trò được Thiên Chúa giao phó là người quản lý tạo thành

I. ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN NHẰM MANG LẠI HÒA HỢP VÀ HÒA BÌNH Ở LỤC ĐỊA CHÂU Á

  1. Châu Á là vùng đất của nhiều tôn giáo và văn hóa. Một số tôn giáo thế giới như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Kỳ Na giáo, đạo Sikh và Thần đạo có nguồn gốc từ Châu Á. Trong bối cảnh đa tôn giáo của Châu Á này, với việc mỗi tôn giáo tìm kiếm không gian và quyền tự chủ, có thể nảy sinh  tinh thần cạnh tranh. Theo tinh thần của Chúa Kitô và Tin Mừng, các Kitô hữu không được tìm cách cạnh tranh với các tôn giáo khác, nhưng cần quan tâm đến việc làm cho đức tin Kitô giáo trở nên sinh động và thể hiện các giá trị Tin Mừng trong cuộc sống của họ để trở thành những chứng nhân sống động của Chúa Kitô.

  2. Nếu Kitô giáo phải cùng tồn tại với các tôn giáo và thế giới quan khác trong thế giới hiện đại đang đối mặt với nhiều thay đổi và thách đố trong bối cảnh toàn cầu hóa, với chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa duy vật, phi nhân hóa và bóc lột thiên nhiên, thì Giáo hội và từng cá nhân Kitô hữu phải chứng tỏ cho thế giới thấy rằng họ có thể đem đến cho thế giới điều gì đó quý giá: sự dấn thân, nét đẹp, niềm vui và hạnh phúc. Thật vậy, nhu cầu cấp thiết hiện nay là phải có một thế giới quan toàn diện, có thể cung cấp các hướng dẫn đạo đức và luân lý khả thi cho một thế giới bị tê liệt bởi thuyết tương đối! Do đó, những thập niên sắp tới sẽ mang đến một cơ hội vàng, cũng như một thách đố lớn cho Thiên Chúa giáo.

PHẦN THỨ BA: PHÂN ĐỊNH

Điều Chúa Thánh Thần đang nói với Giáo hội tại Châu Á

  1. Thánh Matthêu gọi những người tìm kiếm là “Đạo sĩ”, là những người có minh triết và linh cảm, những người dành thời gian NHÌN lên bầu trời và ngắm nhìn các vì sao. Điều này có nghĩa là họ suy tư và tìm kiếm sự hướng dẫn của trời cao cho những mối quan tâm của họ trên trái đất.

  2. Tác giả sách Tin Mừng cho chúng ta biết các Đạo sĩ đã nhìn thấy ngôi sao và cùng nhau lên đường, họ tìm đường lên Giêrusalem, cách điểm đến thực sự của họ là Bêlem một quãng ngắn (x. Mt 2,1). Thánh sử cũng cho chúng ta biết rằng việc họ tìm kiếm “vua mới sinh của dân Do Thái” đã thu hút sự chú ý của Hêrôđê, vị vua đang trị vì của dân Do Thái lúc bấy giờ. “Nghe tin ấy, vua Hêrôđê vô cùng bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao” (Mt 2,3). Vua Hêrôđê hỏi các thầy thượng tế và cả các kinh sư, để tìm xem “Đấng Mêsia”, mối đe dọa quyền lực của ông ta “được sinh ra” ở đâu (Mt 2,4). Các thầy thượng tế và cả các kinh sư tra cứu Kinh thánh và trích dẫn Mikha 5,1, chỉ ra “Bêlem xứ Giuđa” là nơi sinh ra “Vua dân Do Thái mới ra đời” đã được loan báo mà những người ngoại này đang tìm kiếm. Vì chính ngôi sao đã dẫn đường cho những người này đến tận đây, Hêrôđê “đã bí mật gọi họ đến và hỏi họ về thời gian xuất hiện của ngôi sao” (Mt 2,7). Sau đó, ông tiễn họ đi Bêlem với chỉ thị: “Hãy đi tìm kiếm con trẻ. Khi tìm được rồi, hãy báo tin cho tôi, để tôi cũng đi thờ lạy Người.” (Mt 2,8). Sau khi tìm thấy con trẻ, họ có nên trở về Giêrusalem và cho Hêrôđê biết thêm thông tin về tung tích của con trẻ không? Câu hỏi này đòi hỏi sự phân tích cặn kẽ.

  3. Giáo hội tại Châu Á đã có nhiều cuộc gặp gỡ tương tự với các nhân vật chính trị như Hêrôđê, và các nhà lãnh đạo tôn giáo địa phương như các thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem. Những người truyền giáo đầu tiên của chúng ta cũng gặp phải các nhà cầm quyền chính trị và tôn giáo đang cảm thấy bị đe dọa bởi sự hiện diện của họ – và những người truyền giáo ngày nay cũng gặp phải những khó khăn tương tự. Một số người khác cung cấp ‘quan hệ đối tác’ và ‘sự cộng tác’. Làm thế nào để đối phó với những tình huống đa dạng này, là điều đòi hỏi sự phân định liên tục.

  4. Công đồng Vatican II đã chỉ ra tầm quan trọng của việc phân định khi nói rằng: “Toàn thể tín hữu, được Chúa Thánh Thần xức dầu, nên không thể sai lầm trong đức tin. Họ biểu lộ thuộc tính đặc biệt này qua cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể Dân Chúa, khi ‘từ các giám mục cho đến những người bé mọn nhất trong các tín hữu’ đều đồng thuận về những điều liên quan đến đức tin và phong hoá” (Lumen Gentium [LG], 12).

  5. Chúng ta có thể rút ra một số hiểu biết liên quan đến tiến trình phân định cộng đoàn từ điều 2.2 của “Cẩm nang cho Thượng Hội đồng về tính hiệp hành”: Tiến trình này đòi hỏi phải lắng nghe lẫn nhau, lắng nghe truyền thống đức tin của chúng ta và các dấu hiệu của thời đại để nhận ra những gì Chúa đang nói với tất cả chúng ta. Loại phân định này là một tiến trình liên tục và không chỉ làm một lần. Cuối cùng, đó là “một lối sống đặt nền tảng trên Chúa Kitô, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, cho vinh quang Chúa được rạng rỡ hơn”. Giáo hội Tân ước đã tuân theo quy trình này để các tông đồ có thể tự tin nói rằng quyết định được đưa ra sau khi phân định là quyết định chung của Chúa Thánh Thần và của các tông đồ (xem Công vụ 15,28).

  6. Trong sách Khải huyền, thị kiến Gioan ngỏ lời với các Giáo hội Á Châu (Kh 1,4): “Ai có tai thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội thánh” (Kh 3,22). Ghi nhớ những lời này, trong suốt Đại hội FABC, chúng tôi đã tự hỏi: “Chúa Thánh Thần đang nói gì với các Giáo hội ở Châu Á trong thời đại chúng ta hiện nay?” Đặc biệt chúng tôi đã tự hỏi mình, làm thế nào đáp ứng với chín thách đố mà chúng tôi đã cùng nhau nhận ra? Chúng tôi cảm thấy mình được mời gọi:

  7. Đồng hành với người di cư, người tị nạn, người bản địa

  8. Đặc biệt quan tâm đến gia đình

  9. Mở ra những vai trò lãnh đạo mới cho phụ nữ trong Giáo hội Á Châu

  10. Quan tâm đến các vấn đề về giới

  11. Phục vụ giới trẻ

  12. Khuyến khích sử dụng hiệu quả công nghệ kỹ thuật số

  13. Thúc đẩy nền kinh tế dựa trên tăng trưởng mang tính bao gồm trong bối cảnh đô thị hóa và toàn cầu hóa

  14. Chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta.

  15. Trở nên những người bắc cầu và những cây cầu, công cụ đối thoại và hòa giải ở Châu Á.

A. ĐỒNG HÀNH VỚI NGƯỜI DI CƯ, NGƯỜI TỊ NẠN, NGƯỜI BẢN ĐỊA

  1. Nhiều người di cư – là người trong nước hay người nước ngoài – là tín hữu Công giáo, họ mang theo đức tin như một phần của ‘hành trang sinh tồn thiêng liêng’ của họ. Họ có xu hướng liên kết với nhau, đặc biệt khi họ cảm thấy đơn độc ở nước sở tại. Họ tạo ra các nhóm riêng để hỗ trợ nhau bằng cách tham gia các buổi cầu nguyện và học Kinh Thánh, cùng nhau lần hạt Mân Côi, hoặc cùng nhau thực hành các việc đạo đức bình dân. Những người này có thể không phải là người Công giáo tích cực ở quê hương, nhưng nay lại cảm thấy được đức tin lôi kéo như là cách tốt nhất để đối phó về mặt tâm lý và tinh thần với những thách đố và tình huống khó khăn mà họ gặp phải ở những vùng đất xa lạ. Họ tìm thấy nơi các vị tuyên úy và các thừa tác viên cho người di cư nguồn an ủi, nơi nương tựa và tình liên đới.

  2. Chúng tôi vô cùng biết ơn các Giáo hội địa phương đã mở cửa cho những người di cư, người tị nạn và những người tản cư. Chúng tôi cũng được ấn tượng bởi các giáo xứ đã nỗ lực cung cấp nơi thờ phượng cho họ, bảo vệ quyền lợi của họ trước những kẻ bóc lột và chăm sóc mục vụ cho các nạn nhân của nạn buôn người và lạm dụng tình dục. Có thể hiểu được, các vấn đề liên quan đến di cư và buôn bán người nghiêm trọng đến mức chúng thường đòi hỏi sự hợp tác với xã hội dân sự, cũng như với các cơ quan chính phủ và phi chính phủ. Hiệu quả hơn nữa sẽ là sự hợp tác tích cực của các Giáo hội địa phương trong nỗ lực chung nhằm đáp ứng nhu cầu của người Công giáo di cư về chăm sóc tinh thần và mục vụ. Chúng tôi đặc biệt lưu ý đến đề nghị của các giám mục Philippines về việc thành lập một Phủ giám chức tòng nhân để giải quyết những nhu cầu như vậy.

  3. Trong nhiều trường hợp, tại các quốc gia chủ yếu là “Công giáo”, nơi việc thực hành đức tin đã giảm sút triệt để, những người Công giáo di cư đang mang lại ngọn lửa mới cho các giáo xứ vốn đã nguội lạnh. Chẳng hạn, chúng ta nghĩ về những người Công giáo từ Châu Á đã di cư sang các quốc gia khác và cách họ trở thành những nhà truyền giáo một cách ngẫu nhiên chỉ bằng cách sốt sắng sống đức tin, hay cử hành các việc đạo đức truyền thống như tôn vinh Đức Mẹ, tham dự Thánh lễ rạng đông hoặc chiều tối suốt 9 ngày trước lễ Giáng sinh[15], các cử hành trong Mùa Chay và Phục sinh  cũng như lễ bổn mạng. Lòng đạo bình dân của Châu Á ngày càng lan rộng, có thể là cuộc rước Tượng Chúa Chịu Nạn Black Nazarene ở Hàn Quốc hay tôn vinh Chúa Giêsu Hài Đồng, Tuần cửu nhật kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Singapore, hay Cuộc Hành Hương Đức Mẹ Vailankani hay Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ tại Sardhana ở Ấn Độ hoặc Đức Mẹ La Vang ở Việt Nam và các Đền thờ Mariamabad ở Pakistan hoặc Đức Mẹ Madhu ở Sri Lanka. Những người nhập cư Công giáo từ Châu Á mang theo lòng sùng kính độc đáo của họ giống như một kho báu tiềm ẩn đang tiếp tục lan rộng đến nhiều quốc gia trên khắp thế giới.

  4. Trong một bài giảng lễ năm ngoái, Đức Thánh Cha đã khuyến khích cộng đồng Công giáo Di cư ở Rôma: “Anh chị em đã đón nhận niềm vui của Tin Mừng… và niềm vui này hiển hiện trong con người của anh chị em, trên khuôn mặt của anh chị em, trong con mắt của anh chị em, trong bài hát của anh chị em và trong lời cầu nguyện của anh chị em, trong niềm vui khi anh chị em mang niềm tin của mình đến những vùng đất khác”[16]. Đức Thánh Cha nói tiếp, “bất cứ làm việc ở đâu, họ đều gieo niềm tin,” và Ngài coi “sự hiện diện kín đáo và chăm chỉ” của họ là “bằng chứng của đức tin… thông qua sự hiện diện khiêm tốn, kín đáo, can đảm và bền bỉ.”

  5. Ngài có thể bày tỏ những tâm tình tương tự về những người nhập cư Công giáo Á Châu, những người mang theo niềm vui của Tin Mừng và được biến đổi thành những môn đệ truyền giáo khi họ sống đức tin của mình và làm chứng cho Chúa Kitô với tinh thần anh dũng cao cả! Do đó, chúng tôi quyết tâm làm những gì có thể trong FABC để góp phần đào tạo và nâng cao vị thế của những người nhập cư Công giáo Châu Á.

  6. Một nhóm người đặc biệt cần sự chăm sóc và hỗ trợ của chúng ta là những người bản địa đang bị gạt ra bên lề và phải chuyển nơi ở khác nhân danh ‘sự phát triển’. Trong những thập kỷ gần đây, chúng ta đã thấy sự nhạy cảm và nhận thức cao hơn đối với hoàn cảnh khó khăn của người dân bản địa. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 2007 đã thông qua ‘Tuyên bố về Quyền của Người bản địa’ và công nhận rằng Châu Á bao gồm phần lớn các nhóm bản địa có bản sắc riêng. Nói chung, họ là những người định cư sớm nhất trong một khu vực và không chỉ đại diện cho sự phong phú về văn hóa to lớn mà còn cống hiến cho phần còn lại của thế giới trí tuệ và thực tiễn để con người có cuộc sống tốt đẹp hơn trong một thế giới toàn cầu hóa đang trải qua những thảm họa về sinh thái và xã hội. Ở nhiều nơi trên thế giới, những hiểu biết và cách làm nông nghiệp của người bản địa để thích ứng với biến đổi khí hậu cũng ngày càng được công nhận. Do đó, những thách đố về xã hội-văn hóa, chính trị, kinh tế và sinh thái mà họ phải đối mặt sẽ đòi hỏi sự đồng hành và hỗ trợ ngày càng tăng. Trong các tình huống bị bóc lột, Giáo hội, với truyền thống tiên tri của mình, phải là tiếng nói của các dân tộc bản địa và là người bắc cầu trong các xung đột văn hóa-xã hội. Khi tìm cách đồng hành và hỗ trợ mạnh mẽ hơn các dân tộc bản địa, Giáo hội phải là một đồng minh và người bênh vực cho các quyền cơ bản và phẩm giá của họ. Cũng vậy, Giáo hội nên ngày càng coi các nền văn hóa bản địa khác nhau ở Châu Á như một cơ hội để diễn tả đức tin Kitô giáo một cách sáng tạo cho việc loan báo Tin Mừng nhạy cảm với các nền văn hóa.[17]

B. ĐẶC BIỆT QUAN TÂM ĐẾN GIA ĐÌNH

  1. Gia đình là tế bào cơ bản của xã hội và là một trong những yếu tố then chốt của một nền văn hóa đích thực và ổn định. Hơn nữa, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Gia đình chiếm một vị trí rất quan trọng trong các nền văn hóa Á Châu… (do đó) các giá trị gia đình như lòng hiếu thảo, yêu thương và chăm sóc người già và người bệnh, yêu thương trẻ em và sống hòa thuận được đề cao. được tôn trọng trong tất cả các nền văn hóa và truyền thống tôn giáo Á Châu” (EA, 46).

  2. Thật vậy, ‘Giáo hội tại gia’ có một ơn gọi đặc biệt là làm chứng và loan báo Nước Thiên Chúa. Các bậc cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của con cái, họ nêu gương sống đức tin trong tinh thần đồng trách nhiệm. Là những giáo lý viên đầu tiên của con cái, họ truyền thụ Tin Mừng cho con cái và từ con cái của mình, chính họ cũng nhận lại cùng một Tin Mừng mà chúng đã sống! Một gia đình như thế chiếu tỏa Tin Mừng, đồng thời trở thành người loan báo Tin Mừng cho nhiều gia đình khác và cho những người lân cận (FC, 52).

  3. Tại Đại hội FABC 50, chúng tôi lưu tâm đến một số khía cạnh quan trọng của đời sống gia đình và thừa tác vụ:

  4. i) Việc huấn luyện đức tin cho trẻ em và giới trẻ đòi hỏi cha mẹ phải là những người cố vấn quan trọng nhất trong cuộc đời của con cái. Hơn nữa, những thời điểm quan trọng trong hành trình đức tin của các em là việc lãnh nhận các bí tích.

  5. ii) Các phong trào về gia đình trong giáo xứ có thể dạy và trợ giúp cha mẹ trong vai trò là thầy dạy đức tin. Tương tự như vậy, Hội đoàn Gia đình của Giáo xứ có thể kết nối với các Cộng đồng Giáo hội Cơ bản (BEC), Hiệp hội Phụ nữ và các hiệp hội giáo xứ khác để trợ giúp các gia đình gặp khủng hoảng.

iii) Thế giới kỹ thuật số đang biến gia đình thành một mục tiêu dễ bị tấn công. Do đó, Giáo hội cần lưu ý đến điều này khi tìm cách củng cố đức tin trong gia đình.

  1. iv) Các đôi vợ chồng khác đạo cần được chăm sóc mục vụ đặc biệt để cùng với con cái được hướng dẫn và hội nhập vào đời sống Giáo hội.

  2. v) Giáo huấn của Giáo hội liên quan đến vai trò làm cha mẹ có trách nhiệm cần phải được đặc biệt cổ võ.

  3. vi) Cần khuyến khích tư vấn giữa các thế hệ về các mối tương quan.

vii) Các gia đình cần được trợ giúp để phát triển các kỹ năng xây dựng và đào sâu các mối tương quan. Điều này có thể được thực hiện thông qua các chương trình trước hôn nhân cũng như sau hôn nhân.

viii) Cần có sự trợ giúp và chăm sóc đặc biệt cho các thành viên dễ bị tổn thương như những người nam và người nữ độc thân, nhóm thiểu số về tính dục, người cao tuổi, người già yếu, người mất người thân, các bệnh nhân và người khuyết tật, các cá nhân và gia đình đang gặp khủng hoảng.

  1. Vì thế, chúng tôi tìm cách thăng tiến gia đình là nơi mọi người sống với nhau trong sự tôn trọng và hòa thuận, và là nơi cha mẹ dành thời gian quý giá cho bản thân và con cái để giúp chúng tăng trưởng và phát triển với tư cách con người và tư cách Kitô hữu. Chúng tôi cố gắng xây dựng các xã hội Á Châu trong đó người lớn tuổi được tôn trọng và văn hóa sự sống được đề cao. Chúng tôi hy vọng sẽ xây dựng ở châu Á những xã hội ở đó người di cư được hòa nhập và người tị nạn được đoàn tụ với gia đình của họ. Chúng tôi tìm cách thiết lập một ‘nền văn minh tình thương’[18], trong đó gia đình này giúp đỡ gia đình khác, người lớn tuổi hướng dẫn các đôi vợ chồng trẻ và các cộng đồng an toàn – cả cộng đồng thực và cộng đồng ảo bắt đầu hình thành – nơi đó trẻ em và người trẻ có thể dần dần phát triển thành những công dân trưởng thành và cuối cùng là các môn đệ truyền giáo.

C. MỞ RA NHỮNG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO MỚI CHO PHỤ NỮ TRONG GIÁO HỘI Á CHÂU

  1. Tại một cuộc họp của Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền Dòng nữ (UISG), Đức Hồng y Bộ trưởng của một Thánh Bộ đã trả lời câu hỏi “Tại sao khó có được bình đẳng giới trong Giáo hội và xã hội?”[19]như sau: “Vấn đề đồng hành cùng nhau, với tư cách là người nam và người nữ, là điều cần được đào sâu và khám phá nhiều hơn và sâu sắc hơn. Chúng ta cần trở lại với những hiểu biết cơ bản về Kinh Thánh và tự hỏi mình một cách cụ thể: Trở nên hình ảnh của Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa có nghĩa là gì? Nghĩa là người nam và người nữ cùng nhau, vì họ không trở nên hình ảnh của Thiên Chúa riêng mình, nhưng chỉ khi họ ở bên nhau. Thật vậy, trong Thiên Chúa, sự hiệp nhất và đa dạng chưa bao giờ là vấn đề. Đối với chúng ta, đây là một vấn đề lớn trong suốt lịch sử của chúng ta. Chúng ta cần khôi phục khía cạnh này trong cuộc sống của mình”.

  2. Nhiệm vụ của chúng ta sau đó là phục hồi ý thức của con người. Bản chất của việc là một con người liên quan đến cá nhân hóa. Tôi khác với người khác, nhưng tôi không thể hoàn toàn là một người mà không có người khác. Để được sinh ra thì cần có tương quan; muốn phát triển thì cần có tương quan; làm sao điều này lại không đúng trong đời sống thiêng liêng? Do đó, chúng ta cần phải xây dựng lại các mối tương quan của mình.

  3. Tại Đại hội FABC 50, chúng tôi khẳng định như sau:

  4. i) Chăm sóc là một phần quan trọng của thần học Công giáo, lịch sử Giáo hội và sứ mệnh truyền bá Tin Mừng của Giáo hội, trong tinh thần vì lợi ích chung, chúng ta được mời gọi chăm sóc người khác, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, khi chúng ta cố gắng cung cấp cho mỗi người những gì họ đáng được hưởng theo lẽ công bằng. Sự quan tâm và công bằng là rất quan trọng để thăng tiến phụ nữ trong Giáo hội, và là những giá trị mà Giáo hội cần tiếp tục phát huy.

  5. ii) Dựa trên các quan niệm về tình bạn xã hội và bác ái chính trị (x. Thông điệp Fratelli Tutti (Hỡi tất cả anh em) [FT] 88, 169), các tổ chức Giáo hội phải chăm sóc mục vụ cho những người lao động nữ có thu nhập thấp, người giúp việc gia đình người nước ngoài, người dân tộc thiểu số, phụ nữ bị bạo hành và những phụ nữ dễ bị tổn thương khác.

iii) Căn cứ vào bài kinh Magnificat của Đức Maria (Lc 1,46-55), cần khẳng định phụ nữ là đối tượng và chủ thể của sự giải phóng; họ là chủ thể của lịch sử và tác nhân của sự thay đổi.

  1. iv) Giáo hội nên sử dụng những cách khác nhau để khẳng định tình liên đới với phụ nữ, nâng cao vị thế của họ, trợ giúp các nhóm phụ nữ tự lực và ủng hộ việc thay đổi xã hội. Thật vậy, phẩm giá bình đẳng giữa nam và nữ bắt nguồn từ sự khẳng định rằng chúng ta được dựng nên theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Hơn nữa, điều này phải được chuyển thành sự tham gia chung và bình đẳng giữa nam và nữ trong mọi khía cạnh của đời sống Giáo hội, kể cả chức năng lãnh đạo.[20]

  2. Giáo hội Á Châu cần lắng nghe kinh nghiệm của phụ nữ và phụ nữ cần cảm thấy họ đã được lắng nghe và đã đóng góp vào đời sống của Giáo hội. Khi những thực hành trong đời sống trở thành trục cho suy tư thần học, kinh nghiệm sống của phụ nữ sẽ không bị loại trừ. Cuộc đấu tranh của phụ nữ để chống lại các cấu trúc áp bức mở ra những con đường mới để tái cấu trúc các nền thần học hiện có ở châu Á.

D. QUAN TÂM ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ VỀ GIỚI

  1. Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả con cái của Chúa như chính họ là, và ngài phê phán luật hình sự hóa đồng tính luyến ái là bất công, đồng thời kêu gọi các giám mục Công giáo đón nhận những người LGBTQI+ vào Giáo hội.[21]

  2. Những bình luận của Đức Thánh Cha Phanxicô được những người ủng hộ quyền của người đồng tính ca ngợi là một cột mốc quan trọng và được coi là nhất quán với cách tiếp cận tổng thể của ngài đối với những người LGBTQI+ và niềm tin của ngài rằng Giáo hội Công giáo phải đón nhận tất cả mọi người mà không phân biệt đối xử. Đức Thánh Cha trích dẫn Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 2358: “Một số không nhỏ những người nam và người nữ có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Đối với đa số những người này, sự nghiêng chiều vô trật tự một cách khách quan đó, là một thử thách. Họ phải được đón nhận với sự tôn trọng, thông cảm và tế nhị. Phải tránh bất cứ dấu hiệu phân biệt đối xử bất công nào đối với họ. Những người này được kêu gọi thực hiện ý Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, và, nếu là Kitô hữu, họ được kêu gọi kết hợp các khó khăn họ có thể gặp phải do hoàn cảnh của mình, với hy lễ thập giá của Chúa.”

  3. Theo The Human Dignity Trust, khoảng 67 quốc gia hoặc khu vực tài phán trên toàn thế giới hình sự hóa hoạt động tình dục đồng giới đồng thuận, 11 trong số đó có thể hoặc đã áp dụng án tử hình. Các chuyên gia cho biết ngay cả khi luật không được thực thi, luật vẫn góp phần gây ra hành vi quấy rối, kỳ thị và bạo lực đối với người LGBTQI+.

  4. Những người có xu hướng tình dục khác nhau đôi khi phàn nàn về sự phân biệt đối xử tại Bàn tiệc của Chúa. Thánh Thể, nguồn mạch và đỉnh cao của đức tin Kitô giáo (x. GLHTCG 1324), là bí tích của tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô, tình yêu dành cho mọi người, cho cả người công chính và người bất chính, cho thánh nhân và cả tội nhân. Đó là ân sủng của Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, qua Giao Ước mới và vĩnh cửu được hiện thực hoá bằng Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh Thể là thân thể được bẻ ra cho những kẻ cũng bị bẻ ra như chúng ta, được ban cho chúng ta làm lương thực, để chúng ta được thay đổi và biến đổi nên giống Chúa Kitô, thành chi thể của thân thể Người là Giáo hội. Thật vậy, chỉ một mình Chúa mới có thể chữa lành vết thương của chúng ta và phục hồi chúng ta nên vẹn toàn.

E. PHỤC VỤ GIỚI TRẺ

  1. Giới trẻ cần được hướng dẫn và nâng đỡ khi họ trải qua giai đoạn khó khăn nhất trong tiến trình phát triển và tìm cách lớn lên trong cuộc hành trình với Chúa Kitô. Việc giáo dục người trẻ trong Giáo hội được lớn lên trong mối tương quan với Chúa chuẩn bị cho họ phụng sự Chúa Kitô trong mọi việc họ làm. Khi phục vụ giới trẻ, chúng ta không chỉ chuẩn bị cho họ trở thành những nhà lãnh đạo tương lai, mà còn trao quyền cho họ để đóng góp xây dựng Giáo hội. Linh hoạt giới trẻ cho Chúa Kitô luôn là mối quan tâm của Giáo hội. Giới trẻ cần một Giáo hội mời gọi họ tham gia, kiên nhẫn và tha thứ khi họ thất bại, hướng dẫn họ lựa chọn trong cuộc sống và giúp họ trở thành những Kitô hữu trưởng thành, có trách nhiệm. Chúng ta nhớ lại những lời đầy cảm hứng của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Giáo hội sẽ phải dẫn đưa mọi người – linh mục, tu sĩ và giáo dân – vào ‘nghệ thuật đồng hành’ này, một nghệ thuật dạy chúng ta cởi dép trước thánh địa của người khác” (x. Xh 3,5) (EG, 169). Do đó, Giáo hội tìm cách đồng hành với giới trẻ mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.[22]

  2. Giáo hội cần xem xét định kỳ các chương trình, hoạt động và chức năng của mục vụ giới trẻ ở mọi cấp độ – cộng đồng, giáo xứ, giáo hạt và giáo phận – để bảo đảm rằng các yêu cầu của giới trẻ được đáp ứng và hòa nhập với gia đình, cộng đồng và Giáo hội.

  3. Đại hội FABC 50 đã xác định một số lĩnh vực chính của mục vụ giới trẻ:

  4. i) Huấn luyện đức tin: Đức tin cần phải trở nên xác đáng và có ý nghĩa. Nếu kinh nghiệm và hiểu biết về đức tin không chân thực, giới trẻ có nguy cơ dễ bị tổn thương bởi các giá trị vật chất của thế gian, cũng như giáo lý của các giáo phái và các nhóm khác.

  5. ii) Hướng nghiệp: Hướng nghiệp cần được đặt trong bối cảnh phân định ơn gọi và mục đích sống của một người.

iii) Tư vấn: Người trẻ sống trong một thế giới hoàn toàn khác với thế giới mà cha mẹ họ lớn lên. Cả họ và cha mẹ họ đều cần được tư vấn để thu hẹp khoảng cách giữa hai thế giới khác nhau. Cũng cần có sự hướng dẫn chuyên nghiệp cho người trẻ để giúp họ vượt qua những sóng gió trong tiến trình trưởng thành.

  1. iv) Liên kết cộng đồng và tham gia: Người trẻ cần lãnh trách nhiệm góp phần xây dựng thế giới và xã hội mà họ muốn sống. Họ cũng cần tham gia vào các vấn đề dân sự và chính trị, bắt đầu bằng cách giải quyết các vấn đề trong khu phố và xã hội của họ.

  2. Cần có những người lãnh đạo giống như Đức Kitô để phục vụ các thành viên trẻ của Hội Thánh và giúp họ phát huy hết khả năng của mình. Đầu tư vào giới trẻ là cần thiết để phát triển thân thể của Đức Kitô. Cuối cùng, việc giúp giới trẻ phát triển về mặt thiêng liêng trong những năm được đào luyện sẽ trang bị cho họ, giúp họ tạo được ảnh hưởng cho Chúa Kitô, bây giờ cũng như sau này.

  3. Chính trong bối cảnh chăm lo cho giới trẻ mà Đại hội FABC 50 đã suy tư về nhu cầu bảo vệ trẻ vị thành niên và những người lớn dễ bị tổn thương. Tài liệu Hướng dẫn cho Đại hội FABC 50 nêu rõ: “Giáo hội cũng bị thách đố bởi vụ bê bối lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên, đặc biệt là khi ‘văn hóa im lặng’ đang phổ biến ở những nơi này trên thế giới. Việc lạm dụng quyền lực đặt ra cho Giáo hội những thách đố mà Giáo hội phải đương đầu”.

  4. Các giá trị tôn trọng trẻ em và kính trọng người cao niên được coi là nét đặc trưng của gia đình ở Châu Á. Chúng tôi biết rằng Giáo hội phải tham gia vào các nỗ lực nhằm tạo ra sự thay đổi lâu dài thông qua việc đào tạo, thay đổi hệ thống và cấu trúc, và vận động để bảo vệ những người dễ bị tổn thương. Nhiều sáng kiến trong số này phải được thực hiện bằng cách hợp tác và kết nối với các tổ chức xã hội dân sự và phi chính phủ vì lợi ích thiện ích của tất cả mọi người. Những sự hợp tác này chỉ làm nổi bật thực tế là Giáo hội không tồn tại cho chính mình nhưng phục vụ tất cả các dân tộc ở Châu Á khi Giáo hội tiếp tục loan báo Nước Thiên Chúa và biến đổi các thực tại của chúng ta nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần (x. LG, 5).

F. KHUYẾN KHÍCH SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT SỐ

  1. Các nhà khoa học đã và đang nói về “cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”[23]. Hiện tại có 2,2 tỷ người dùng trực tuyến ở Châu Á, với 95% sử dụng thiết bị di động. Mặc dù ảo không bao giờ nhằm mục đích thay thế các cuộc gặp gỡ thực tế, nhưng chúng ta cần một đáp ứng mang tính truyền giáo và hướng tới tương lai đối với thực tế này, khi mà sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và cuộc cách mạng kỹ thuật số tiếp tục tác động và thay đổi cuộc sống của chúng ta. Do đó, thế hệ “di dân kỹ thuật số” này rất cần phải bước vào thế giới kỹ thuật số để sử dụng hiệu quả công nghệ kỹ thuật số cho sứ mệnh của Giáo hội.

  2. Đại dịch đã khiến cho công nghệ kỹ thuật số càng thêm sức mạnh và hữu dụng. Nó giúp các giáo xứ đến được với mọi người bất chấp những hạn chế và phong toả, đồng thời phục vụ các nhu cầu tâm linh và giáo dục đức tin trực tuyến.

  3. Tuy nhiên, trong các nền tảng kỹ thuật số mới này, đặc biệt là các mạng xã hội, những người sở hữu công nghệ sẽ đặt ra luật lệ. Họ kiếm tiền bằng cách vừa sở hữu dữ liệu vừa có quyền đối với dữ liệu đó. Được thúc đẩy bởi quảng cáo, họ có quyền kiểm soát các câu chuyện mà họ cho phép lưu hành. Những người làm truyền thông Công giáo đã kêu gọi các nhà lãnh đạo Giáo hội nhìn nhận rằng họ cũng là những người có ảnh hưởng và do đó có một sứ điệp thuyết phục để công bố.

  4. Chúng tôi thừa nhận nhu cầu truyền giáo kỹ thuật số hiệu quả, bao gồm việc thiết lập các nền tảng truyền thông xã hội an toàn của riêng Giáo hội và xây dựng các nhóm truyền thông xã hội trong các Giáo hội địa phương. Hơn nữa, trong thế giới kỹ thuật số, vì nhận ra rằng kể chuyện là chiến lược, nên chúng tôi đề nghị cách dạy giáo lý sáng tạo bằng cách dùng sức mạnh của những câu chuyện, hình ảnh và ẩn dụ, giúp kết nối Lời Chúa với cuộc sống của mọi người một cách hiệu quả hơn. Chắc chắn chính những người trẻ, những người được gọi là “người bản địa kỹ thuật số”, sẽ là những người được kỳ vọng dẫn đầu trong thừa tác vụ này.

G. THÚC ĐẨY NỀN KINH TẾ DỰA TRÊN TĂNG TRƯỞNG MANG TÍNH BAO GỒM TRONG BỐI CẢNH ĐÔ THỊ HÓA VÀ TOÀN CẦU HÓA

  1. Toàn cầu hóa đang chi phối nền kinh tế thế giới ngày nay. Tài liệu hướng dẫn cho Đại hội FABC 50 viết: “… khi được thúc đẩy bởi hệ thống kinh tế tân tự do hoặc các cuộc tranh giành quyền lực chính trị vì lợi ích cá nhân, toàn cầu hóa cũng có thể dẫn đến sự tập trung quyền lực kinh tế và chính trị vào tay một số ít và các công ty xuyên quốc gia. Điều này lại khiến người ta không còn quan tâm đến phương thức đa phương trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu với cái giá phải trả là các nước yếu hơn, các công ty nhỏ, người dân bản địa, người nghèo, người dễ bị tổn thương và môi trường. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và phát huy sức mạnh của các công ty xuyên quốc gia vốn thường có quan hệ với chính phủ, họ lợi dụng việc thiếu vắng các luật lệ và sự kiểm soát liên quan lẽ ra phải hướng dẫn các thị trường tự do toàn cầu… Lòng tham lợi nhuận và tăng trưởng không giới hạn cũng làm gia tăng bất bình đẳng ở Châu Á và dẫn đến các tiến trình phát triển bất đối xứng”.

  2. Trật tự kinh tế hiện nay không có lợi cho người nghèo, trái lại, nó đang giết chết hàng triệu người. Chúng ta ghi nhớ những lời đầy cảm hứng của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Giống như giới răn ‘Chớ giết người’ đặt ra một giới hạn rõ ràng để bảo vệ giá trị của sự sống con người, ngày nay chúng ta cũng phải nói ‘không’ với nền kinh tế loại trừ và bất bình đẳng. Một nền kinh tế như thế cũng giết người! Ngày nay, mọi thứ đều theo luật cạnh tranh và luật sinh tồn của kẻ thích hợp nhất, ở đó kẻ mạnh ăn bám kẻ yếu. Hậu quả là, rất nhiều người thấy mình bị loại trừ và bị gạt ra ngoài lề xã hội: không có việc làm, không có triển vọng, không có bất kỳ lối thoát nào.” (EG, 53).

  3. Trong bài nói chuyện tự phát với các Giám đốc của Quỹ Đoàn kết Toàn cầu vào ngày 25 tháng 5 năm 2022, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Nền kinh tế phải được chuyển đổi, (và) nó phải được chuyển đổi ngay bây giờ. Chúng ta cần chuyển từ nền kinh tế tự do sang nền kinh tế chia sẻ của người dân, sang nền kinh tế cộng đồng… Chúng ta không thể sống với mô hình kinh tế xuất phát từ những người theo chủ nghĩa tự do và Khai sáng. Chúng ta cũng không thể sống với mô hình kinh tế bắt nguồn từ chủ nghĩa cộng sản…”

  4. Vì quá trình đô thị hóa và toàn cầu hóa dường như là những xu hướng không thể đảo ngược, nên điều cấp thiết là các nhà lãnh đạo Giáo hội phải được thông báo đầy đủ về xu hướng đang nổi lên này ở Châu Á và sẵn sàng đối mặt với tình hình này về mặt mục vụ. Vì các thành phố là nơi có ảnh hưởng về xã hội, chính trị và kinh tế, nên cộng đồng Kitô giáo ở thành thị Châu Á ngày càng tăng, cần được huấn luyện và trang bị một đức tin sâu sắc cũng như các kỹ năng xã hội và văn hóa để trở thành một cộng đồng chứng nhân của muối và ánh sáng nhằm phục vụ hiệu quả cho toàn thể cộng đồng dân cư đô thị. Thật thú vị, đỉnh cao của Tân Ước tượng trưng là một thành phố – Thành Giêrusalem Mới; thành này là một phần của ngôi nhà hòa bình, nơi đó, lời hứa của Thiên Chúa về công lý cho người nghèo, ơn cứu rỗi cho người khiêm nhường và đổi mới tạo thành, được viên mãn. (x. Kh 21-22).

H. CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG CỦA CHÚNG TA

  1. Là môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa nhập thể, chúng ta cần tham gia vào một cuộc đối thoại sâu sắc với tạo thành. Chúng ta là người quản lý tạo thành, chứ không phải chủ nhân. Chúng ta nợ các thế hệ đi trước về việc phải giữ gìn ngôi nhà chung cho toàn vẹn cũng như phải bảo đảm tương lai và phẩm giá của các thế hệ đến sau. Tính liên đới giữa các thế hệ không phải là điều tuỳ chọn, mà là vấn đề về công lý và tồn tại xứng với nhân phẩm. Môi trường là dành cho mỗi thế hệ vay mượn và chúng ta chịu trách nhiệm về cách chúng ta để lại môi trường cho thế hệ đến sau.

  2. Chúng ta cần học hỏi từ thiên nhiên, cũng như từ sự khôn ngoan của những người bản địa, họ không coi thiên nhiên như một thứ gì đó ở bên ngoài mà như một người mẹ nuôi dưỡng họ. Chúng ta phải học nơi họ cách đối xử với tạo thành một cách bền vững, bởi vì họ coi thiên nhiên là một hệ thống liên kết toàn diện, trong đó chúng ta chỉ là một phần. Thật không may, ngày nay các nước châu Á ghi nhận mức tăng khí thải cao nhất. Do đó, một bên là chính phủ các quốc gia Á Châu và một bên là các quốc gia công nghiệp phát triển, mà theo thời gian là những quốc gia dẫn đầu về nguồn phát sinh khí thải nhà kính cũng như trục lợi từ các mô hình sản xuất không bền vững, cần cấp bách thi hành trách nhiệm của mình trong các quyết định liên quan đến Thoả thuận chung Paris 2015.

  3. Thỏa thuận chung Paris 2015 thực sự là một bước ngoặt trong ứng phó toàn cầu với biến đổi khí hậu. Để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và các tác động tiêu cực của nó, các nhà lãnh đạo thế giới tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (COP 21) ở Paris đã đạt được bước đột phá vào ngày 12 tháng 12 năm 2015 trong Thỏa thuận chung Paris lịch sử này. Thỏa thuận đặt ra các mục tiêu dài hạn để hướng dẫn tất cả các quốc gia:

  4. i) Giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu ở mức dưới 2 độ C so với mức thời kỳ tiền công nghiệp và theo đuổi các nỗ lực hạn chế mức tăng nhiệt độ ở mức 1,5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Điều này sẽ làm giảm đáng kể những nguy hiểm và tác động của biến đổi khí hậu;

  5. ii) Tăng cường khả năng thích ứng với tác động bất lợi của biến đổi khí hậu, đẩy mạnh khả năng phục hồi sau tác động của khí hậu và giảm lượng khí thải nhà kính, theo cách không đe dọa sản xuất lương thực;

iii) Bảo đảm cho các dòng tài chính phù hợp với lộ trình hướng tới lượng khí thải nhà kính thấp và phát triển thích ứng với biến đổi khí hậu. Thoả thuận là một hiệp ước quốc tế ràng buộc về mặt pháp lý. Nó có hiệu lực vào ngày 4 tháng 11 năm 2016. Tính đến hôm nay, 194 Bên (193 Quốc gia cộng với Liên minh Châu Âu) đã tham gia Thỏa thuận chung Paris.[24]

  1. Chúng ta cũng biết rằng cái giá của việc không hành động lớn hơn nhiều so với cái giá của hành động, và nếu chúng ta cứ tiếp tục như bảy năm qua sau Thoả thuận chung Paris (12/12/2015), chúng ta sẽ không đạt được mức nhiệt độ dưới 2,5 độ C với những hậu quả tai hại, đặc biệt là đối với người nghèo, ở châu Á và trên toàn thế giới. Do giá dầu và khí đốt cao, việc bán nhiên liệu hóa thạch đã đem lại những món tiền kếch xù. Điều quan trọng hiện nay là chúng ta không phạm phải sai lầm trong quá khứ mà phải sử dụng số tiền kiếm được này để tạo ra năng lượng tái tạo, bảo đảm hiệu quả năng lượng và phát triển các công nghệ biến đổi tiết kiệm chi phí hơn.

  2. Đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha về việc hoán cải sinh thái và hành động vì khí hậu qua Thông điệpLaudato Si’– Đại Hiến chương của Giáo hội liên quan đến biến đổi khí hậu – Đại hội FABC 50 đã đưa ra lời khẩn cầu mạnh mẽ rằng chúng ta hãy chấm dứt hành vi vô trách nhiệm và không bền vững về mặt sinh thái cũng như những lối sống lãng phí, đồng thời nâng cao nhận thức về môi trường thông qua việc chủ động thúc đẩy quản lý chất thải rắn và chất thải khí lành mạnh về mặt sinh thái, loại bỏ các mô hình nông nghiệp phụ thuộc vào phân bón hóa học độc hại, thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ, đồng thời tránh xa các ngành công nghiệp phụ thuộc vào than đá và năng lượng được tạo ra từ nhiên liệu hóa thạch khác. Chúng tôi cũng đã thề sẽ thúc đẩy một cách có ý thức việc tạo ra năng lượng sạch và bền vững trên khắp Châu Á, bắt đầu từ các tổ chức của chính chúng tôi trong các Giáo hội địa phương của chúng tôi. Chúng tôi cũng sẽ làm việc với người dân bản địa trên khắp Châu Á, cũng như với tất cả các lực lượng của xã hội dân sự và đại diện của các chính phủ, để phục hồi rừng, lưu vực sông và rạn san hô, để bảo tồn động vật hoang dã, duy trì đa dạng sinh học bản địa và khôi phục hệ sinh thái và quần xã sinh vật.

  3. Động thái của một số Hội đồng Giám mục và các giáo phận đơn lẻ nhằm rút vốn đã đầu tư của các tổ chức của họ vào ‘năng lượng bẩn’, chẳng hạn như năng lượng than đá và nhiên liệu hóa thạch, là một động thái cụ thể mà Giáo hội và xã hội Á Châu phải noi theo. Chúng tôi sẽ nâng cao nhận thức trong khu vực của chúng tôi và cố gắng bảo đảm rằng các Giáo hội ở các nước công nghiệp hóa sẽ dẫn đầu. Ngoài việc khuyến khích các Giáo xứ và Dòng tu cũng làm như vậy, Phong tràoLaudato Si’và tất cả các cơ quan Giáo hội cần vạch ra các kế hoạch hành động cho tình hình địa phương của họ, cũng như các kế hoạch ở cấp Hội đồng Giám mục và chính FABC. Dưới ánh sáng của Laudato Si’, chúng tôi cũng quyết tâm nỗ lực gấp đôi trong việc vận động chính sách, cùng với các Liên Hội đồng Giám mục của các châu lục khác, và nâng cao nhận thức cũng như các nỗ lực hỗ trợ hành động nhằm xoa dịu nỗi thống khổ của người dân. Hơn nữa, chúng tôi sẽ cởi mở với các sáng kiến đại kết và liên tôn liên quan đến các mối quan tâm và hành động về khí hậu, cũng như quan hệ đối tác với các nhóm xã hội dân sự. Chúng tôi sẽ cố gắng hợp tác với các cơ quan Chính phủ và Phi chính phủ để thực hiện các mục tiêu Laudato Si’ của Giáo hội, các mục tiêu của Thỏa thuận chung Paris 2015 và các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc.

I. TRỞ NÊN NHỮNG NGƯỜI BẮC CẦU VÀ NHỮNG CÂY CẦU, CÔNG CỤ ĐỐI THOẠI VÀ HÒA GIẢI Ở CHÂU Á

  1. Trở thành “những nhịp cầu và những người xây cầu” là hình ảnh mô tả tốt nhất sứ mệnh của Giáo hội tại Châu Á và Tin Mừng mà chúng ta mang đến cho các dân tộc của mình và phần còn lại của thế giới. Nó gói gọn sứ mệnh và mục đích của Chúa Giêsu, Đấng mà chúng ta tuyên xưng là Chúa Kitô và Thiên Chúa nhập thể, người sinh ra ở Châu Á và lớn lên như một người Á Châu, đồng thời khai sinh ra một truyền thống tâm linh vĩ đại ở Lục địa này. Trình thuật Kinh thánh (x. St 28,10-19) về giấc mơ của Giacóp về một cái thang giữa trời và đất tóm tắt câu chuyện cứu độ. Đó là câu chuyện về Thiên Chúa của Israel, Đấng chủ động chống lại những tác động của tội lỗi, xu hướng con người muốn đóng vai thần thánh và ngạo mạn cắt đứt mối liên hệ của chúng ta với Đấng Tạo Hóa, chính nguồn sống của chúng ta. Chính tội lỗi đã gây ra sự xa cách của chúng ta với Thiên Chúa, với nhau, với tạo vật và với chính bản thân chúng ta.

  2. Kể từ đó, chúng ta đã không ngừng “vật lộn với Thiên Chúa” giống như tổ tiên Giacóp của chúng ta, và đã cố gắng chiến thắng tội lỗi với sự trợ giúp của lòng thương xót của Thiên Chúa. Dù tội lỗi, chúng ta vẫn được kêu gọi phục vụ như “chiếc cầu bắc qua dòng nước xiết”, như chiếc cầu thang, qua đó “các thiên thần có thể lên xuống” để Thiên Chúa một lần nữa bước đi với nhân loại. Cuối cùng, giấc mơ của Giacóp sẽ trở thành hiện thực nơi chính con người Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đích thân đến để làm cầu nối (x. Ga 1,51). Như Thánh Phaolô nói: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả mọi sự sung mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với chính mình, nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an, cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,19-20).

  3. Chúng ta công bố chính Chúa Kitô là nhịp cầu, là Đấng mà chúng ta tìm được “con đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6). Chỉ nhân danh Người, Giáo hội tại Châu Á mới có thể đáp lại tiếng gọi của Chúa Thánh Thần để trở thành người xây cầu. Kể từ thời điểm FABC được triệu tập lần đầu tiên, chúng tôi đã liên tục đề nghị đối thoại như một trong những ưu tiên mục vụ cơ bản của Giáo hội Á Châu. Đối thoại là cách thể hiện tốt nhất lời kêu gọi của chúng ta để trở thành những người xây cầu. Chúng ta được kêu gọi mở rộng hiểu biết về đối thoại vượt ra ngoài ba bối cảnh tôn giáo, văn hóa và người nghèo, bao gồm cả đối thoại với giới trẻ và phụ nữ, đối thoại với chính phủ và các nhóm xã hội dân sự, với tạo thành, với các nhà kỹ trị, doanh nhân và nhà khoa học, người nghèo đói, người vô gia cư, người mù chữ, người di cư và người tị nạn, người bản địa, nạn nhân của nạn buôn người, người khuyết tật, người không có giấy tờ và phiến quân, cũng như những người đang vật lộn với chứng nghiện ngập và các vấn đề sức khỏe tâm thần khác.

  4. Chính trong bối cảnh đối thoại mà chúng tôi đã nêu bật vai trò của Giáo hội Á Châu trong việc xây dựng hòa bình và trong thừa tác vụ tạo điều kiện cho hòa giải. Chúng tôi đã nhận ra rằng trong việc thúc đẩy hòa bình, đối thoại với các nạn nhân của bạo lực cũng cần thiết như đối thoại với những kẻ gây bạo lực. Nếu không, không có cách nào chúng ta có thể ngăn chặn cái vòng luẩn quẩn của bạo lực, khiến những kẻ bị lạm dụng trở thành kẻ lạm dụng và chính nạn nhân lại trở thành nạn nhân của chính mình.

  5. Tại nhiều nơi ở Châu Á, Giáo hội tìm cách vượt qua nhiều hoàn cảnh xung đột và do đó được kêu gọi trở thành tác nhân hòa giải. Chúng ta có nhiều điều để học hỏi từ sự khôn ngoan của bốn yếu tố cơ bản trong bí tích hòa giải của Giáo hội: xưng tội, sám hối, đền tội và tha tội. Vì những yếu tố này có hiệu quả trong việc giải quyết nhu cầu được hòa giải cá nhân của chúng ta với Chúa, nên chúng cũng có hiệu quả trong việc giải quyết các xung đột cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội của chúng ta. Làm sao có thể hòa giải được nếu chúng ta thậm chí không có sự khiêm tốn để thừa nhận những thiếu sót và thất bại của mình? Nếu chúng ta không sẵn sàng bày tỏ sự hối hận về tác hại và tổn thương mà chúng ta có thể đã gây ra? Nếu chúng ta không quyết tâm đền bù và thực hiện những hành vi đền bù cụ thể? Làm sao chúng ta có thể làm việc để hòa giải nếu chúng ta không khiến mọi người coi tha thứ là mạnh mẽ chứ không phải yếu đuối?

  6. Để đáp ứng một cách thích hợp và hiệu quả chín thách đố mà chúng ta đã xác định,việc đào tạotrở thành một yếu tố quan trọng. Thật vậy, những thách đố mà chúng ta phải đối mặt và một phản ứng thích hợp cần được thực hiện, sẽ đòi hỏi phản ứng phối hợp của tất cả mọi người – giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân – để bảo đảm rằng chúng ta cố gắng xây dựng một Giáo hội hợp tác. Do đó, các chương trình đào tạo dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là dành cho giáo dân, trở thành một ưu tiên. Thật vậy, chúng ta không thể đáp ứng thỏa đáng những thách đố mà chúng ta gặp phải, nếu mọi tín hữu không cùng nhau hăng hái dấn thân. Do đó, các giám mục, linh mục và tu sĩ cần phải được đào tạo để giúp giáo dân mạnh dạn sống cam kết khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, cả trong giáo hội và xã hội. Như thế chúng ta sẽ có một ‘Giáo hội được đổi mới’. Và khi làm như vậy, chúng ta sẽ có một Châu Á tốt đẹp hơn cho tất cả các dân tộc của mình. Đây là lời kêu gọi mà Giáo hội ở Châu Á cảm nhận được khi cuối cùng Giáo hội ấy cũng hoạt động vì một thế giới tốt đẹp hơn.

  7. Chúa Thánh Thần mời gọi Giáo hội tại Châu Á khôi phục lại nền tảng của chức tư tế thừa tác trên chức tư tế chung của các tín hữu. Không có cách diễn tả nào về điều này có thể hay hơn kiểu nói của Thánh Augustinô: “Cho anh em, tôi là giám mục, với anh em, tôi là một Kitô hữu.” Chúng ta không thể nào thực hiện được vai trò là những thừa tác viên có chức thánh cho cộng đoàn tín hữu nếu không cùng là Kitô hữu như họ, cùng một phẩm giá là thành viên của thân thể Chúa Kitô. Công đồng Vatican II đã nói rất rõ ràng về sự kiện này: “Các ngài không thể là thừa tác viên của Đức Kitô nếu không trở nên chứng nhân và nên người ban phát một đời sống khác với đời sống trần thế này; tuy nhiên các ngài không thể phục vụ nhân loại nếu lại trở nên xa lạ với cuộc đời và những hoàn cảnh sống của nhân loại (x. 1Cr 10,33). Chính thừa tác vụ đặc biệt của các ngài đòi buộc các ngài không được sống rập theo đời này (x. Ga 3,8), nhưng đồng thời lại đòi hỏi các ngài phải sống giữa mọi người trong thế gian này” (Presbyterorum Ordinis[PO], 3).

  8. Tại Đại hội FABC 50, chúng tôi lặp lại quyết tâm đã nhiều lần được đưa ra tại các Hội nghị toàn thể FABC trước đây về việc cần phải cải tổ cả chương trình đào tạo ban đầu và chương trình thường huấn đối với các thừa tác vụ có chức thánh theo cách thúc đẩy một Giáo hội có sự tham gia nhiều hơn và để người giáo dân tham gia nhiều hơn vào các vai trò lãnh đạo. Để có thể làm được điều này, chúng ta phải quan tâm đến việc thường huấn cho các chủng sinh, linh mục, tu sĩ và giám mục của chúng ta. Chúng ta cần đưa ra các chương trình và cấu trúc đào tạo theo bối cảnh của các nền văn hóa và thế giới quan cụ thể của chúng ta ở các quốc gia Á Châu khác nhau Những người lãnh chức thánh phải học cách chia sẻ vai trò lãnh đạo với giáo dân và tu sĩ qua nhiều tác vụ và công việc phục vụ khác nhau mà tất cả chúng ta được kêu gọi đảm nhận trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, theo gương Chúa Giêsu, Đấng trong Bữa Tiệc Ly đã nhắc nhở các môn đệ, “Thầy ở giữa anh em như người tôi tớ”. (Lc 22,27).

  9. Sự tham gia của người giáo dân, bao gồm cả phụ nữ, vào việc đào tạo nhân bản, thiêng liêng, mục vụ và tri thức, sự hướng dẫn cá nhân gần gũi qua gương sáng, việc tham gia – được hướng dẫn – của các ứng viên cho các thừa tác vụ có chức thánh vào hoàn cảnh sống của người nghèo, việc họ tiếp xúc với các cộng đoàn giáo hội và nhân loại cơ bản và việc họ tham gia vào cuộc đối thoại liên tôn, đại kết và văn hóa sẽ tạo ra bầu không khí đào tạo cần thiết để đào tạo ra “những mục tử có mùi chiên”. Đặc biệt, chúng tôi cũng đã chỉ ra sự cần thiết phải đưa các giáo huấn và truyền thống của FABC vào chương trình học tập của họ.

PHẦN THỨ TƯ: TRAO TẶNG NHỮNG MÓN QUÀ

Văn hóa và Linh đạo Á Châu

  1. “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2,11).

  2. Trong bức hoạ của Thánh Matthêu về các đạo sĩ để cho ngôi sao dẫn đến một ngôi nhà thấp hèn ở Bêlem, chúng ta thấy một hình ảnh đặc trưng của người Châu Á, khách đến thăm cung kính cởi dép ra như chúng ta đã được dạy làm như thế khi bước vào nhà riêng của chúng ta. Đây là cách người Châu Á nhắc nhở bản thân rằng “gia đình” là cùng nhau tạo ra một không gian thánh thiêng. Và vì vậy, chúng ta phủi bụi chân và thanh tẩy để chuẩn bị gặp gỡ Đấng Thánh ở nơi thâm sâu của nhà mình. Chính trong khung cảnh của một ngôi nhà mà Thiên Chúa làm nơi ở và hiện diện giữa chúng ta. Chúng ta biết ơn sự hiện diện đó, nhất là lại hiện diện trong một trẻ sơ sinh yếu đuối cần được gia đình yêu thương chăm sóc.[25]

  3. Chúng ta tìm thấy ý nghĩa trong việc tôn thờ Thiên Chúa nơi một hài nhi đã tự hủy mình ra không và ôm lấy nhân tính của chúng ta để nâng cao phẩm giá của nhân tính ấy thành hình ảnh đích thực của Thiên Chúa. Như Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Tràn đầy khao khát về cái vô tận, họ quan sát bầu trời, thấy mình ngỡ ngàng trước một vì sao rực sáng, và đi tìm điều siêu việt truyền cảm hứng cho hành trình của các nền văn minh và sự tìm kiếm không mệt mỏi của trái tim nhân loại”[26]. Ngài là Thiên Chúa nhập thể làm người để con người được thần hoá. Ngài đã tự hiến mình như một món quà thiêng liêng (sacerdos) để giúp chúng ta nhận ra sự sống của chính mình là quà tặng và dâng chúng lên Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc của mọi quà tặng để cứu rỗi thế giới.

  4. Dù trong Giáo hội hay trong thế giới mà Giáo hội tại Châu Á đang sống, chúng ta vẫn tiếp xúc với nhiều quan điểm, tôn giáo và văn hóa, màu sắc và hương vị khác nhau; tất cả cùng tồn tại với nhau, vừa hài hòa vừa căng thẳng!

  5. Cũng như các Đạo sĩ, người Châu Á chúng ta đánh giá cao thái độ im lặng tôn kính và tìm kiếm sự cô tịch để chiêm niệm trong các đền thờ, các ashram và những nơi linh thiêng. Chúng ta thực hiện cùng một cử chỉ chắp tay và cúi đầu, không chỉ trong cầu nguyện và thờ phượng, mà còn để bày tỏ sự công nhận, tôn trọng và chúc bình an, để chúc phúc cho người khác, chấp nhận một vinh dự, để bày tỏ lòng biết ơn, bắt đầu đối thoại và tình bạn, để xin tha thứ và chào tạm biệt. Thay vì xin chúc phúc bằng lời, có người chỉ cần nắm lấy tay của người trên và đặt lên trán mình.

  6. Điều quan trọng cần lưu ý là vương quyền của Chúa Giêsu được mạc khải trong sự nghèo khó tuyệt đối của máng cỏ. Nhận ra sức mạnh cứu rỗi của những người sống trong cảnh nghèo khó, và đặt họ ở trung tâm của Giáo hội, chúng ta được mời gọi suy ngẫm về sự khôn ngoan mầu nhiệm của Thiên Chúa, thường được mặc khải cho chúng ta bằng chính cuộc sống của người nghèo.[27]

  7. Như Đức Thánh Cha Phanxicô nhận xét trongFratelli Tutti[FT], “Cần phải ý thức hơn nữa rằng ngày nay hoặc chúng ta cùng được cứu thoát hoặc không ai được cứu cả. Nghèo đói, suy đồi và đau khổ ở một vùng nào đó trên trái đất sẽ âm thầm phát sinh ra nhiều vấn đề mà cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến toàn thể hành tinh chúng ta”[28]. Chúng tôi tin rằng  “mỗi chúng ta đều có thể học được điều gì đó từ người khác, không ai là vô dụng, không ai là thừa thãi. Điều này hàm ý rằng cả những người sống ở vùng ngoại vi cũng được hội nhập vào. Những người này có lối nhìn khác. Họ thấy các khía cạnh của thực tại mà các trung tâm quyền lực, nơi đưa ra các quyết định quan trọng nhất, lại không nhận ra”[29].

  8. Trong thời đại của chúng ta, chúng ta không thể đọc ‘dấu chỉ của thời đại’ theo cách của các nhà chiêm tinh thời xưa, tức là, theo vị trí của các vì sao, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục đọc các ‘dấu chỉ’ trong thiên nhiên, trên khuôn mặt của những người chúng ta gặp và trong các sự kiện xảy ra trong cộng đồng của chúng ta và thế giới xung quanh. Các nền văn hóa Á Châu của chúng ta giúp chúng ta nhạy cảm với sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng chủ động giao tiếp với chúng ta, luôn mời gọi chúng ta đáp lại bằng đức tin và tình yêu và dẫn chúng ta đến sự sống sung mãn.

  9. Tuyên ngônDominus Jesusnhận định: “Ghi nhớ tín điều này [Chúa Giêsu nhập thể], thần học ngày nay, khi suy tư về sự hiện hữu của các kinh nghiệm tôn giáo khác và về ý nghĩa của chúng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, được mời gọi tìm hiểu xem các nhân vật lịch sử và các yếu tố tích cực của các tôn giáo này có thể nằm trong kế hoạch cứu rỗi thiêng liêng hay không và bằng cách nào”[30].

  10. Do đó, đối với người Châu Á chúng ta, nhìn không chỉ là định vị sự vật bằng mắt. Đó là một xu hướng chú ý, xuất phát từ thái độ khiêm tốn nhìn nhận rằng chúng ta thiếu hiểu biết và thật lòng mong muốn biết nhiều hơn, và xu hướng thán phục và ngạc nhiên về thế giới. Người Châu Á chúng ta không coi cuộc sống là sự lựa chọn giữa những đối lập, giữa đen hay trắng, ánh sáng hay bóng tối. Chúng ta thích tiếp tục đối phó với căng thẳng một cách có ý thức trong một động lực sáng tạo mà hy vọng sẽ đơm hoa kết trái trong chúng ta, giữa chúng ta và xung quanh chúng ta.

  11. Giáo hội tại Châu Á có nhiều điều để học hỏi từ khuynh hướng bất bạo động mang tính văn hóa cao của tổ tiên chúng ta. Chúng ta đã phát triển khả năng tự vệ thành một nghệ thuật, trong đó mục tiêu là không bao giờ làm hại, gây thương tích hoặc giết kẻ tội phạm nhưng là chặn bước di chuyển, tránh đòn và chặn các đòn tấn công của kẻ ấy đến khi kẻ ấy gục ngã. Nghệ thuật tự vệ có nhiều tên gọi ở châu Á nhưng nguyên tắc thì giống nhau. Khi được thực hiện một cách tập thể bởi một dân tộc đứng lên chống lại bất công một cách kiên định bất bạo động, nó được người Ấn Độ đặt cho những cái tên mới, chẳng hạn như Satyagraha, một trong những di sản sáng chói của Mahatma Gandhi, đã dẫn đến sự chấm dứt chế độ cai trị của nước ngoài ở Ấn Độ, hoặc “Sức Mạnh Nhân Dân” của người Philippines, đã chấm dứt chế độ độc tài ở Philippines.

  12. Lựa chọn nhìn thấy nơi mỗi con người là một người đau khổ mở ra cho chúng ta con đường Châu Á dẫn đến hòa bình và hòa giải, ngay cả khi chúng ta học cách định hướng qua nhiều xung đột trong xã hội của chúng ta. Chúng tôi đấu tranh cho công lý theo cách bất bạo động, và luôn theo cách quan tâm đến tinh thần chữa lành mà các nạn nhân của bất công và bạo lực cần, để bóp chết vòng luẩn quẩn của bạo lực từ trong trứng nước. Chúng tôi tin vào lựa chọn tha thứ như sức mạnh chứ không phải điểm yếu. Như vậy, sức mạnh của thập giá Chúa Kitô như một bí tích của tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa vang vọng sâu xa trong tâm hồn người Châu Á. Như thánh Phaolô đã nói rất đúng, xét cho cùng, nhân đức lớn nhất không phải là đức tin hay đức cậy, nhưng là agape, tình yêu vô điều kiện (x. 1Cr 13,13). Đây thực sự là một tin mừng mà Giáo hội Á Châu loan báo. Đó là hoa sen nở lặng lẽ ngay cả trong vùng nước tối tăm nhất.

  13. Vì thế, đối thoại luôn được đặt lên hàng đầu trong các ưu tiên mục vụ của FABC ngay từ đầu. Trong nhiều hình thức, chúng tôi đã đặc biệt tập trung vào điều mà chúng tôi gọi là đối thoại tam diện: đối thoại với các truyền thống tôn giáo của các nước láng giềng, đối thoại với các nền văn hóa của các nước láng giềng và đối thoại với người nghèo.[31]Dưới ánh sáng của tính hiệp hành, Đức Thánh Cha Phanxicô đã truyền cảm hứng cho chúng ta mở rộng phạm vi đối thoại vượt ra ngoài giao tiếp giữa các cá nhân, và mở rộng nó đến khái niệm hiệp hành về tính đồng hành và thân thiện. Nó không bao giờ phát xuất từ một suy đoán ác ý bởi vì nó dựa trên nguyên tắc cơ bản của Kitô giáo rằng mọi người đều được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa (St 1,26-27), tự bản chất là tốt, ngay cả khi hình ảnh đó có bị tội lỗi làm hư hại và che khuất.

  14. Khi một số giáo hội địa phương của chúng ta ở Châu Á nói về việc cần thiết phải giới thiệu Chúa Giêsu mang “Khuôn mặt Á Châu” là vì họ thuộc về các miền đất Á Châu đã tiếp nhận đức tin Kitô giáo trong trang phục Âu Châu, qua nỗ lực truyền giáo của các nhà truyền giáo Âu Châu. Điều này thậm chí còn dễ hiểu hơn ở những quốc gia nơi sự truyền bá của Thiên Chúa giáo có liên quan đến quá khứ thuộc địa của họ. Thật là trớ trêu khi một số người Châu Á thường quên rằng Kitô giáo đã bén rễ đầu tiên trên miền đất Châu Á, và Con Thiên Chúa đã nhập thể đầu tiên trong một nền văn hóa và bối cảnh là Châu Á. Ngay ở trung tâm của các diễn đạt về đức tin trong Kinh thánh theo phong cách Hy-La sau này, là một nền văn hóa đậm chất Semitic và Châu Á. 

  15. Một thực tế cũng thường bị lãng quên là các khu vực truyền giáo đầu tiên của Kitô giáo sơ khai nằm ở các thành phố thuộc về nơi từng được gọi là “Tiểu Á”, chẳng hạn như những thành phố được đề cập trong Công vụ Tông đồ của Luca, tức là các chuyến hành trình truyền giáo của Phaolô ở những nơi như Syria, Antiokia, Phrygia, Galatia, Ephesô, Iconium, Derbe, Lystra và Pisidia, Troas và Miletus. (Công vụ 16). Ngay cả sách Khải huyền cũng bắt đầu với những sứ điệp của thị kiến nhân gửi cho “bảy Giáo hội của Châu Á” (Kh 1,3).

  16. Hiện nay lịch sử cũng đã chứng thực rõ ràng rằng đức tin Kitô giáo đã thực sự lan đến nhiều quốc gia Châu Á dưới hình thức ban đầu của Châu Á trong thiên niên kỷ thứ nhất. Nhưng nhiều hoàn cảnh, gồm cả sự ngược đãi, đã ngăn cản đức tin bén rễ ở Châu Á trong thiên niên kỷ thứ nhất, ngoại trừ ở một số quốc gia như Ấn Độ, bằng chứng là các nghi lễ Đông phương của các Giáo hội Syro-Malabar và Syro-Malankara có nguồn gốc từ các hoạt động truyền giáo đầu tiên của Thánh tông đồ Tôma tại Ấn Độ.

  17. Ở hầu hết các vùng khác của Châu Á, bất cứ nơi nào công việc truyền bá Phúc âm của Kitô giáo được các nhà truyền giáo từ Châu Âu đảm trách, chẳng hạn như ở các thuộc địa cũ của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Anh, hoặc từ Bắc hoặc Nam Mỹ, chẳng hạn như những người đã đến Philippines qua ngả Acapulco, một số lối diễn tả Kitô giáo theo kiểu Tây phương vẫn còn rõ ràng trong nghệ thuật tôn giáo, kiến trúc và các nghi lễ phụng vụ. Trong những trường hợp như vậy, có thể hiểu được một nỗ lực trình bày Kitô giáo theo cung cách Á Châu. Hiệp thông với Rôma không nhất thiết có nghĩa là “Rôma hóa” Giáo hội ở Châu Á.

  18. Mặc dù Công đồng Vatican II ủng hộ việc hội nhập văn hóa phụng vụ vào các nền văn hóa và ngôn ngữ địa phương của Châu Á, như đã được trình bày rõ ràng trongSacrosanctum Concilium, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm liên quan đến cuộc đối thoại liên văn hóa vốn sẽ tiếp tục định hình cho cả việc diễn tả và thực hành đức tin Kitô giáo ở các quốc gia khác nhau ở Châu Á.

  19. Khát vọng chung của Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh về các nền thần học phù hợp với bối cảnh hơn, cũng như đối với các thực hành nhạy cảm với văn hóa trong các lĩnh vực hoạt động mục vụ, các biểu thức phụng vụ, các việc đạo đức bình dân và linh đạo bản địa, đều được thể hiện rõ ràng trong tất cả các tài liệu của Liên Hội đồng Giám mục châu lục của chúng tôi. Những nguyện vọng này được xác thực bởi sensus fidelium (cảm thức của các tín hữu) mà Thượng Hội đồng về Tính hiệp hành đang diễn ra có nói đến.

PHẦN THỨ NĂM: MỞ RA NHỮNG CON ĐƯỜNG MỚI

Trở về bằng một con đường khác

  1. “Và được báo mộng là đừng trở lại gặp Hêrôđê, nên họ đi đường khác mà về xứ mình” (Mt 2,12)

  2. Thánh Matthêu thuật lại khi các Đạo sĩ đến Giêrusalem để tìm kiếm thông tin, họ đã hỏi: “Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu? Vì chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người bên trời Ðông và chúng tôi đến yết bái Người.” (Mt 2,2). Họ đi theo sự hướng dẫn thiêng liêng – là ngôi sao – và đồng thời, sự hướng dẫn của con người: đó là sự giúp đỡ của những người khác để tìm ra Đấng mà họ đang tìm kiếm. Sau khi tìm thấy Người, họ phủ phục trước Vua Hài Nhi, dâng cho Người kho báu của họ. Sau đó, họ trở về quê hương bằng một con đường khác (x. Mt 2,9).

  3. Chúng tôi, các Giám mục Á Châu đã làm một điều tương tự khi chúng tôi cùng nhau tham dự Đại hội FABC 50. Như chúng tôi đã giải thích trong Chương Hai, chúng tôi đã tìm kiếm sự hướng dẫn thiêng liêng trong việc cầu nguyện và chiêm niệm cũng như sự hướng dẫn của con người nơi các ‘chuyên gia’ trong các lĩnh vực khác nhau. Cùng nhau, chúng tôi đã xem xét các thực tế khác nhau thông qua một ‘chuyến thăm ảo’ tới từng quốc gia Châu Á. Chúng tôi nhìn vào thực tế của Châu Á, và nhận ra những gì Thánh Linh đang nói với chúng tôi. Chúng tôi đã dâng cho Chúa Giêsu những kho báu mà chúng tôi khám phá được. Do đó, giờ đây chúng tôi đã sẵn sàng để trở về giáo phận của mình bằng “một con đường khác”, theo những con đường mới đã được mở ra trước mắt chúng tôi bởi FABC 50. Chúng ta có thể vạch ra năm con đường mà chúng ta muốn đi sau Đại hội FABC 50.

A. TỪ NGÔN NGỮ XA LẠ ĐẾN TIN MỪNG ĐƯỢC HỘI NHẬP

  1. Chúa Kitô, Con Thiên Chúa đã mặc lấy một nhân tính là người Châu Á. Các cuộc truyền giáo đầu tiên là đến các quốc gia ‘Tiểu Á’. Nhưng quá trình Kitô giáo hóa nhiều quốc gia Á Châu sau này vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ hai gắn liền với địa chính trị Âu Châu, với việc các đế chế Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha phân chia thế giới với nhau. Do đó, ở nhiều nước Châu Á, Kitô giáo đến với trang phục Âu Châu. Thông thường, các nhà truyền giáo được các dòng tu của chính họ cử đi dựa trên sự bảo trợ của hoàng gia của các thế lực ngoại bang.

  2. Dĩ nhiên, có những nhà truyền giáo đã chọn đi một con đường khác. Họ đã làm theo một cách khác để tránh cho sứ mệnh của mình phải được chính quyền thuộc địa cầm quyền chấp thuận. Trong số những ví dụ đáng chú ý nhất về những nhà truyền giáo như vậy trong thế kỷ 16-17 là các nhà truyền giáo Dòng Tên người Ý Alessandro Valignano và Matteo Ricci, người đã mang Kitô giáo đến Nhật Bản và Trung Quốc.[32]Tương tự như thế, Roberto de Nobili, người đã theo bước chân của Ricci trong bối cảnh miền Nam Ấn Độ.[33]Người ta có thể nói rằng họ đã sống trước thời đại và đi trước FABC gần bốn thế kỷ về việc nhất quyết đối thoại với các nền văn hóa và tôn giáo Á Châu!

  3. Các tu sĩ Dòng Tên người Ý, Alessandro Valignano và Matteo Ricci, độc đáo ở chỗ họ không chỉ quyết tâm học ngôn ngữ địa phương để truyền đạt đức tin. Họ cũng coi trọng các nền văn hóa và tín ngưỡng địa phương. Họ đến không chỉ để dạy mà còn để học bằng cách hòa mình vào thế giới quan của nước sở tại. Họ đã để Tin Mừng bén rễ trên mảnh đất của nền văn hóa Á Châu. Họ nhận ra rằng “mô hình truyền giáo chinh phục sẽ hoàn toàn vô ích trong việc thâm nhập vào các nền văn minh cổ đại của Nhật Bản và Trung Quốc”[34]. Điều tương tự cũng có thể được nói về Robert De Nobili và các cộng tác viên của ông ở Ấn Độ, những người đã tìm cách cắm rễ Tin Mừng vào nền văn hóa của nước sở tại của họ. Họ “bác bỏ ý tưởng về Kitô giới, nghĩa là giả định rằng Kitô giáo về cơ bản đồng nhất với xã hội châu Âu”[35].

  4. Cách tiếp cận truyền giáo thích ứng với phong tục địa phương và tôn trọng văn hóa của các quốc gia được truyền giáo đã thực sự nhận được sự ủng hộ của Roma ngay từ đầu.[36]Thật không may, khi các dòng tu khác bắt đầu công việc truyền giáo ở Trung Quốc trong thế kỷ 17, họ đã phản ứng mạnh mẽ với các mô hình truyền giáo về hội nhập văn hóa và thích ứng do Valignano và Ricci áp dụng, gây ra một cuộc tranh cãi gay gắt mà cuối cùng đã thu hút sự chú ý của Roma và dẫn đến điều được gọi là  “Cuộc tranh luận về Lễ nghi Trung Hoa”. Kết quả là, Giáo hoàng Clêmentê XI, vào năm 1704, đã ban hành Sắc lệnhCum Deus Optimus, lên án những nghi lễ tổ tiên này của người Trung Quốc và cấm những người theo đạo Công Giáo Trung Quốc thực hành những lễ nghi ấy. Một trong những hậu quả nghiêm trọng nhất của Sắc lệnh này là nó đã khiến vị Hoàng đế  có thiện cảm trước đây nay chuyển sang thái cực đối lập và áp đặt một lệnh cấm  đối với Kitô giáo.[37] Cuộc tranh luận về Lễ nghi Trung Hoa còn kéo dài cho đến nửa đầu thế kỷ 20, cuối cùng vào năm 1939, Đức Piô XII, qua Thánh Bộ Truyền bá Đức tin, đã ban hành Sắc lệnh mới Plane Compertum.[38] Thật đáng khích lệ khi thấy rằng các vị Giáo hoàng gần đây đã liên tục ủng hộ một cách nhìn tích cực hơn đối với các phương pháp truyền giáo đối thoại và hội nhập văn hóa của Valignano và Ricci[39]. Đức Thánh Cha Phanxicô mô tả Ricci là “một con người của gặp gỡ, không còn là một người nước ngoài mà đã trở thành công dân của thế giới”[40].

  5. Tại Đại hội FABC 50, chúng tôi cảm nhận rằng Giáo hội phảiquay trở lại công cuộc truyền giáo hội nhập văn hóa. Hội nhập văn hóa bắt nguồn từ thần học nhập thể và mầu nhiệm vượt qua. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa cứu độ loài người bằng cách ôm lấy nhân loại của chúng ta và mặc lấy xác thân con người, thông qua SỰ NHẬP THỂ. Trong Philipphê 2,7-8, Thánh Phaolô gọi đó là KENOSIS của Thiên Chúa: “Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế; Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” Sự thật nền tảng là: LỜI ĐÃ TRỞ THÀNH XÁC PHÀM. “Người đã dựng lều giữa chúng ta.”

  6. Mầu nhiệm Nhập Thể vẫn tiếp tục với Giáo hội. Chúa Thánh Thần tiếp tục nhập thể trong các cộng đồng môn đệ làm nên Giáo hội, THÂN THỂ CHÚA KITÔ, trong các giáo hội địa phương hoặc các cộng đồng môn đệ trên khắp thế giới. ĐỨC TIN  không bao giờ đi vào nơi chân không. Truyền giáo luôn diễn ra trong bối cảnh LIÊN VĂN HÓA.

  7. Mặc dù chúng tôi hiểu rằng HỘI NHẬP VĂN HÓA thực sự là một khía cạnh thiết yếu của cuộc đối thoại giữa đức tin và văn hóa, nhưng xét cho cùng, đối thoại chỉ có thể thực hiện được giữa những người mở lòng đón nhận một cuộc GẶP GỠ LIÊN VĂN HÓA vốn có thể mang lại những hình thức hội nhập văn hóa mới. Một cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa tạo ra một loại năng động có lợi cho cả hai bên đối thoại. Và điều này mở ra cho chúng ta cái mà chúng ta có thể gọi là CHUYỂN DỊCH VĂN HÓA, cụ thể là việc khám phá các giá trị được chia sẻ cho phép chúng ta vượt qua các nền văn hóa, và thậm chí dẫn đến sự phát triển và thanh lọc các nền văn hóa.

B. TỪ CỘNG ĐỒNG GIÁO HỘI CƠ BẢN (BEC) ĐẾN CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI CƠ BẢN (BHC)

  1. Tại Đại hội FABC 50 ở Bangkok, dưới ánh sáng của khát vọng về một Giáo hội hiệp hành hơn, không ngừng phát triển trên ba khía cạnh hiệp thông, tham gia và sứ vụ, chúng tôi đã quyết tâm định hướng lại các BEC của mình để trở thành chất xúc tác cho sự đổi mới trong xã hội . Thật vậy, tính hiệp hành vượt khỏi đối thoại; nó không chỉ nhắm đến việc thúc đẩy giao tiếp. Điều cần thiết hơn cả giao tiếp là đồng hành, cùng nhau tiến bước, thân tình với nhau. Các Cộng đồng Giáo hội Cơ bản của chúng ta sẽ không thể hiện tính hiệp hành thực sự như một lối sống nếu các cộng đồng của chúng ta chỉ gắn bó với chính họ và các mối quan tâm về ‘giáo hội’ của chính họ. Nếu họ trung thực với sứ mệnh của mình, nghĩa là giống như men trong một khối bột nhào, thì chúng ta phải xây dựng loại cộng đồng Kitô giáo sẽ dẫn đến các Cộng đồng Nhân loại Cơ bản.

  2. Chúng ta cũng phải sẵn sàng hơn để loại bỏ những thừa tác vụ không còn phục vụ mục đích của chúng nữa và thay vào đó sẵn sàng nhận ra những đặc sủng được Chúa Thánh Thần quảng đại ban cho chúng ta và thiết lập những thừa tác vụ mới, không chỉ là loại thừa tác vụ mời gọi các tín hữu đến phục vụ Giáo hội, nhưng quan trọng hơn là những thừa tác vụ trao cho họ, với tư cách thành viên, quyển phục vụ toàn xã hội. Giáo dân của chúng ta cần sử dụng sức mạnh của đức tin, đặc biệt để giúp xử lý các xung đột ở mọi cấp độ, để tham gia tích cực vào chính trị vì lợi ích chung, nhất là trong công việc vì hòa bình và hòa giải dựa trên công lý và sự tôn trọng lẫn nhau đối với phẩm giá con người.

C. TỪ ĐỐI THOẠI ĐẾN HIỆP HÀNH

  1. Trong năm thập kỷ qua, FABC đã kiên trì theo đuổi con đường ĐỐI THOẠI tam diện – với CÁC NỀN VĂN HÓA, với CÁC TÔN GIÁO và với NGƯỜI NGHÈO. Phương thức ĐỐI THOẠI giờ đây được thể hiện đầy đủ hơn trong SỰ HIỆP HÀNH. Tính hiệp hành đưa ra một cách diễn đạt mới mẻ cho tinh thần của Công đồng Vatican II về sự hòa giải. Chúng tôi nhận ra rằng điều khiến chúng tôi cảm thấy thoải mái với TÍNH HIỆP HÀNH là nó đã ăn khớp hơn với những gì chúng tôi đã không ngừng theo đuổi trong FABC. Tính hiệp hành không thể có nếu không có đối thoại, ngay cả khi tính hiệp hành còn hơn cả đối thoại. Việc lắng nghe và phân định đi kèm với đối thoại về cơ bản là những yếu tố đi kèm với tính hiệp hành. Mục tiêu không gì khác hơn là vượt qua SỰ KHÁC của đối tác đối thoại để trở thành NGƯỜI LÂN CẬN và là đối tác trong sự hiệp thông. Mục đích của đối thoại được thể hiện một cách mạnh mẽ hơn bởi tính HIỆP HÀNH bao gồm khát vọng HIỆP THÔNG, THAM GIA và SỨ VỤ.

  2. Trong suốt Đại hội FABC 50, chúng tôi đã nỗ lực tìm ra những con đường mới như các Đạo sĩ đã làm. Chúng ta được hướng dẫn để làm điều mà Phêrô đã làm tại Công đồng Giêrusalem đầu tiên (Công vụ 15), khi một số môn đệ, phản ứng trước sứ mệnh của Phaolô cho dân ngoại, muốn hạn chế sứ mệnh cho những người Do Thái gia nhập đạo. Đảm nhận vai trò lãnh đạo của mình, tại Công đồng Giêrusalem, Phêrô đứng giữa Giacôbê và Phaolô và ra tay để giữ họ lại với nhau (xem Công vụ 15).

  3. Điều đã soi đường cho chúng ta khi chúng ta cùng nhau nhận định những thực tế đang nổi lên ở Châu Á, chính là ngọn lửa mới mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã đốt lên trong Giáo hội qua những suy tư của ngài, đặc biệt là những suy tư chứa đựng trong các tài liệu của giáo hoàng nhưEvangelii Gaudium(Niềm vui của Tin Mừng),  Laudato Si’ (Về việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta), Amoris Laetitia (Niềm vui của tình yêu), Fratelli Tutti (Về tình huynh đệ và tình bạn xã hội), cũng như tông hiến được xuất bản gần đây, Praedicate Evangelium (Về Giáo triều Rôma và sự phục vụ của Giáo Triều cho Giáo hội trên thế giới). Đại hội FABC 50 đã cho chúng tôi thời gian để xem xét lại những lời dạy này một cách nghiêm túc. Và chúng tôi nhận ra rằng những giáo huấn vĩ đại này của Tòa thánh Phêrô đã tái khẳng định Công đồng Vatican II và thách đố Giáo hội hoàn vũ “trở về cội nguồn của mình” (ressourcement), đồng thời đáp lại “những dấu chỉ của thời đại” (aggiornamento).

  4. Vì một trong những hoa trái cụ thể nhất của Công đồng Vatican II là Thượng Hội đồng Giám mục, nên chúng tôi cảm thấy rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi Giáo hội nghiêm túc thực hiện ‘tính hiệp hành’, mở rộng nó theo cả hai hướng –ad intravà ad extraAd intra, bên trong Giáo hội, giữa các tín hữu Công giáo: những người sống tận hiến, những người có chức thánh và giáo dân, đặc biệt là phụ nữ và những người trẻ. Ad extra với Giáo hội, hướng ra bên ngoài đến các anh chị em Kitô hữu, đến những người có niềm tin, đến nhân loại, nhất là người nghèo, và mọi thụ tạo trong ngôi nhà chung của chúng ta.

D. TỪ LOAN BÁO ĐẾN KỂ CHUYỆN

  1. Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã loan báo tại Palestine vào thế kỷ thứ nhất là triều đại Thiên Chúa sắp đến. Người mời gọi mọi người khám phá phẩm giá và sự cao quý của nhân tính của chúng ta trong khát vọng chung là thiết lập triều đại của Thiên Chúa ở giữa chúng ta. Và vì vậy, Chúa Giêsu kêu gọi sự chú ý đến Lời giảng của Người bằng cách sử dụng mọi phương tiện có sẵn lúc bấy giờ. Trong khi hầu hết các Rabbi cùng thời với Người đều lệ thuộc phương tiện quen thuộc là bục giảng của Hội đường, thì Chúa Giêsu lại công bố sứ điệp của mình ở bất cứ nơi nào có dân chúng: trên thuyền bên bờ hồ, tại bữa ăn chung, trên đường, trên sườn đồi, dưới gốc cây; đơn giản là bất cứ đâu! Và hầu hết những khi ấy là các cuộc trò chuyện giản dị, bình thường.

  2. Phương pháp của Chúa Giêsu vẫn là phương pháp hiệu quả nhất trong thời đại ngày nay: KỂ CHUYỆN. Mọi người trên thế giới đều yêu thích những câu chuyện hay. Luôn có một ‘đứa trẻ’ trong chúng ta muốn lắng nghe khi ai đó kể một câu chuyện và bắt đầu bằng câu thông thường, “Ngày xửa ngày xưa…” hoặc “Ở một ngôi làng xa xôi bên bờ biển…” hoặc “Một ngày kia một người cha có hai con trai…” Chúng tôi nhớ lại rằng chủ đề của Đại hội Truyền giáo Châu Á tại Chiang Mai, năm 2006 khi chúng tôi suy ngẫm về khuôn mặt của Chúa Giêsu ở Châu Á, là “kể chuyện Chúa Giêsu…”. Chúng tôi cũng xác định một phương pháp nuôi dưỡng các Cộng đồng Giáo hội Cơ bản của chúng tôi là khuyến khích “kể chuyện” như cách sống đặc trưng nhất của một Giáo hội Á Châu, giúp tăng cường các cuộc trò chuyện chân thực giúp củng cố sự hiệp thông và xây dựng cộng đồng.

E. TỪ LỐI MÒN ĐẾN NHỮNG ƯU TIÊN MỤC VỤ MỚI

  1. Tại Đại hội FABC 50, các Giám mục chúng tôi đã đưa ra những quyết định cụ thể để chuyển từ con đường mòn cũ sang những ưu tiên mới. Chúng ta có thể kể ra một số trong số này:

  2. Chúng tôi sẽ làm việc để đổi mới các thừa tác vụ của chúng tôi trong tất cả các giáo hội địa phương của chúng tôi ở Châu Á hướng tới truyền giáo bằng cách nuôi dưỡng các cộng đồng của chúng tôi trong năng động của sự hiệp thông và tham gia. Bằng cách làm như vậy, chúng tôi hy vọng sẽ định hướng lại các tín hữu của chúng tôi từ việc quy về bản thân sang việc thực sự sống ơn gọi trở thành “muối đất” và “ánh sáng thế gian”, mà không có động cơ nào khác ngoài việc chia sẻ niềm vui Tin Mừng của Chúa Kitô cho một thế giới đang khao khát được đổi mới và tái tạo theo kế hoạch của Chúa. Chúng tôi hy vọng có thể định hướng lại các thừa tác vụ của mình từ việc chỉ phục vụ Giáo hội sang phục vụ thế giới, như một phần sứ mệnh của một Giáo hội phục vụ.

  3. Chúng tôi cam kết biến đổi  các giáo xứ của chúng tôi từ bảo tồn sang truyền giáo, bằng cách cổ vũ các Cộng đồng Giáo hội Cơ bản xây dựng các Cộng đồng Nhân loại Cơ bản. Chúng tôi sẽ đảm bảo rằng tất cả các Giáo hội địa phương của chúng tôi là nơi an toàn cho trẻ em và người lớn dễ bị tổn thương, và các Giáo hội địa phương ấy cũng chủ động giải quyết và ngăn chặn mọi hình thức lạm dụng. Chúng tôi sẽ đảm bảo rằng Giáo hội cũng đón tiếp người nghèo, đặc biệt là người di cư, người du lịch và người tản cư, đồng thời luôn duy trì bầu không khí hòa nhập, nhạy cảm về giới và có sự tham gia của mọi người.

  4. Chúng tôi sẽ luôn chú ý đến lời kêu gọi hoán cải mục vụ và sinh thái trước tình trạng khẩn cấp về khí hậu hiện nay theo cách thực sự nhạy cảm với “cả tiếng kêu của trái đất và tiếng kêu của người nghèo.” Chúng tôi sẽ nỗ lực hợp tác với các cơ quan cam kết giảm lượng khí thải carbon của chúng tôi bằng cách từ chối sử dụng năng lượng bẩn và thúc đẩy việc tạo ra năng lượng sạch và tái tạo. Trong tinh thần đại kết và đối thoại liên tôn, chúng ta sẽ đoàn kết với các Kitô hữu, với những người có niềm tin và với tất cả mọi người trong việc bảo vệ trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta. Chúng tôi sẽ chủ tâm kêu gọi tất cả các tổ chức của mình kiên quyết thoái vốn khỏi các khoản đầu tư vào các ngành đang hủy hoại môi trường của chúng ta.

  5. Chúng tôi sẽ đóng vai trò là cầu nối và người xây dựng cầu nối, đồng thời tích cực làm việc để hòa giải các cuộc xung đột. Chúng tôi sẽ chủ tâm thăng tiến hạnh phúc của tất cả mọi người và nhất quán tham gia xây dựng xã hội đặc biệt quan tâm đến phúc lợi của những thành phần thiệt thòi nhất trong xã hội, đặc biệt là trẻ em và người già, người khuyết tật, người nghiện sử dụng chất kích thích, người đấu tranh với các vấn đề sức khỏe tâm thần, những người bị tước đoạt tự do, nạn nhân của nạn buôn người và giết người phi pháp, người dân bản địa, những người sống sót sau chiến tranh và thiên tai. Chúng tôi quyết tâm sống theo tinh thần hỗ tương và hòa hợp bằng cách lắng nghe người khác trong cuộc đối thoại thực sự.

  6. Hợp tác với các anh chị em của chúng ta thuộc các truyền thống Kitô giáo và các tôn giáo lân cận, chúng ta sẽ giúp thúc đẩy một nền văn hóa hòa bình và hòa hợp, nền kinh tế của sự tăng trưởng và phát triển toàn diện, các phương pháp tiếp cận toàn diện đối với giáo dục và đào luyện tính cách, và sự tiến bộ của khoa học và công nghệ hướng tới sự phát triển con người toàn diện. Chúng tôi cam kết sử dụng đúng đắn và hợp lý công nghệ kỹ thuật số, đặc biệt quan tâm đến phúc lợi của những người trẻ. Chúng tôi sẽ đoàn kết với các cơ quan chính phủ, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức dân sự về các vấn đề nhân quyền, xóa đói giảm nghèo, nạn buôn người, bảo vệ môi trường và sử dụng phương tiện truyền thông xã hội cách đúng đắn.

  7. Chúng ta sẽ đi xa hơn cuộc đối thoại giữa các cá nhân với nhau để tiến tới những cuộc đối thoại đa phương nhằm thúc đẩy tư duy phê phán và các nguyên tắc phân định chung. Chúng tôi sẽ bảo vệ quyền tự do của tất cả các cộng đồng tín ngưỡng để đóng góp vào việc xây dựng quốc gia thông qua việc rèn luyện tính cách đạo đức của công dân. Chúng tôi sẽ chống lại ý thức hệ của chủ nghĩa thế tục loại trừ đức tin, tôn giáo và tâm linh khỏi các diễn ngôn công cộng. Chúng tôi sẽ làm việc với tất cả những người có thiện chí để thúc đẩy một thế giới tốt đẹp hơn và nhân đạo hơn, hướng tới xây dựng một nền văn minh công lý, hòa bình và tình yêu. Sứ mệnh của chúng tôi là đóng góp cho một Châu Á tốt đẹp hơn, hoạt động vì một thế giới tốt đẹp hơn.

KẾT LUẬN

  1. Trở thành tất cả… cho người dân Châu Á

  2. Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô mô tả sự hiểu biết của ngài về việc trở thành môn đệ và nhà truyền giáo của Chúa Giêsu Kitô: “Đối với những người yếu đuối, tôi đã trở nên yếu đuối, để chinh phục những người yếu đuối. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người… Tất cả những điều này, tôi làm vì Tin Mừng, để chính tôi cũng được dự phần vào đó.” (1 Cr 9,22-23). Dưới ánh sáng của những lời này, chúng tôi khiêm tốn trình bày Tài liệu Cuối cùng này của Đại hội FABC 50 được triệu tập tại Ban Phu Waan, Bangkok, từ ngày 12 đến ngày 30 tháng 10 năm 2022. Chúng tôi trình bày tài liệu này chỉ “vì lợi ích của Phúc âm”, đó là Tin Mừng về tình yêu, hòa bình và công lý của Thiên Chúa dành cho các dân tộc của chúng ta ở Châu Á và toàn thể nhân loại.

  3. Giáo hội tại Châu Á chỉ có thể mang Tin mừng giải phóng, ban sức mạnh và hồi sinh của Chúa Giêsu Kitô nếu Giáo hội học cách làm chứng cho tình yêu này và dâng hiến tặng vật của mình như các Đạo sĩ đã làm trước mặt Thiên Chúa, Đấng đã trở thành hài nhi, một người trong chúng ta, trong Chúa Giêsu Kitô. Trong giáo huấn và qua cuộc đời, cái chết và sự phục sinh, Người mặc khải cho chúng ta tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng tạo thành mọi người và thiên nhiên. Người dạy chúng ta đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, phục vụ và yêu thương “những người thân cận” của chúng ta, những người đói khát, bệnh tật, ngoại kiều và di dân, người bản địa, bị áp bức và thiếu thốn (x. Mc 12,29 tt và Mt 25,31 tt), và cùng nhau tiến bước trong một giáo hội hiệp hành, hội nhập văn hóa với các mối quan hệ liên văn hóa với các nước láng giềng của chúng ta về tôn giáo, văn hóa và xã hội vì một châu Á tốt đẹp hơn.

  4. Chúng tôi phó thác Giáo hội tại Châu Á và các dân tộc Á Châu cho sự chuyển cầu và bảo vệ của Đức Maria, Mẹ Rất Thánh của chúng ta.

Lạy Đức Bà, Mẹ Chúa Giêsu

Xin kéo chúng con đến gần vòng tay của Con của Mẹ.

Tất cả những gì chúng con có, chúng con xin dâng lại cho Hài Nhi , Con của Mẹ

Như Người đã ban chính Người cho chúng con để làm quà tặng

Xin cho những hạt giống Tin Mừng của Người tiếp tục bén rễ trên mảnh đất Châu Á.

Cầu mong Người tiếp tục làm người trong các nền văn hóa Á Châu của chúng con.

Để chúng con có thể học cách làm trống rỗng chính mình như Người đã làm,

Để thế giới có thể nhìn thấy trong chúng con khuôn mặt Á Châu của Con của Mẹ,

Và trong chúng con, giữa chúng con và qua chúng con,

ánh sáng của Giêsu có thể chiếu tỏa phần còn lại của Châu Á! AMEN.

  1. Chúng tôi thấy thật thích hợp để kết thúc Tài liệu này với lời bài hát tuyệt đẹp, nhan đề “Bài ca Châu Á”, được sáng tác cho Đại hội FABC 50 của chúng ta. Lấy cảm hứng từ câu chuyện của Matthêu về cuộc hành trình của các Đạo sĩ đến Bêlem, đó là một lời cầu nguyện được viết bằng thơ và phổ nhạc Châu Á, trẻ trung, đầy hy vọng và nâng tâm hồn lên:

BÀI CA CHÂU Á

Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng đi cùng chúng con

Trên các bãi biển, chúng con thấy tình yêu đang đến,

gieo hạt giống trên mọi miền đất của chúng con

Một dấu hiệu lớn lao chợt bừng lên chiếu soi màn đêm của chúng con,

để giải thoát chúng con.

Và vào lúc bình minh, chúng con thấy mặt trời của Ngài,

tất cả những cái bóng của chúng con giờ có một ý nghĩa

Giờ đây chúng con thấy một người chị, một người anh,

chẳng còn thấy ai xa lạ trên đất nước chúng con nữa.

Lạy Thiên Chúa là Cha, danh Ngài là lòng thương xót,

ôi Chúa Giêsu cứu chuộc nỗi đau của chúng con

Chúa Thánh Thần đổ đầy chúng con ngọn lửa tình yêu cao vời của Ngài,

Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng đi cùng chúng con.

Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng đi cùng chúng con.

Và người nghèo sẽ cất cao lời ca ngợi Ngài,

người trẻ chúng con sẽ nắm lấy sứ mệnh

Và tiếng rên rỉ của tạo thành giờ đây sẽ được lắng nghe

Mọi người sẽ được vui hường nền hoà bình linh thánh

Mọi người sẽ được vui hường nền hoà bình linh thánh.

Ngài đã đan kết chúng con lại với nhau,

những sắc thái khác nhau giờ tỏa sáng như một

Chúng con là quà tặng cho nhau, là muối và ánh sáng cho mọi người

Và vào lúc hoàng hôn, chúng con thấy ngôi sao của Ngài, chỉ về một hướng mới

Bây giờ chúng con phục vụ mọi anh chị em,

chúng con là một gia đình trên đất nước của chúng con.

Lạy Thiên Chúa là Cha, danh Ngài là lòng thương xót,

Chúa Giêsu cứu chuộc nỗi đau của chúng con

Chúa Thánh Thần đổ đầy chúng con ngọn lửa tình yêu cao vời của Chúa,

Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng đi cùng chúng con

Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng đi cùng chúng con

Và người nghèo sẽ cất cao lời ca ngợi Ngài,

người trẻ chúng con sẽ nắm lấy sứ mệnh

Và tiếng rên rỉ của tạo thành giờ đây sẽ được lắng nghe

Mọi người sẽ được vui hường nền hoà bình linh thánh

Mọi người sẽ được vui hường nền hoà bình linh thánh.

Chúng con sẽ đi đến bên lề,

và chiêm ngưỡng khuôn mặt của Chúa.

Và người nghèo sẽ cất cao lời ca ngợi Ngài,

người trẻ chúng con sẽ nắm lấy sứ mệnh

Và tiếng rên rỉ của tạo thành giờ đây sẽ được lắng nghe

Mọi người sẽ được vui hường nền hoà bình linh thánh

Mọi người sẽ được vui hường nền hoà bình linh thánh.

Lạy Thiên Chúa là Cha, danh Ngài là lòng thương xót,

Chúa Giêsu cứu chuộc nỗi đau của chúng con

Chúa Thánh Thần đổ đầy chúng con ngọn lửa tình yêu cao vời của Chúa,

Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng úa đi cùng chúng con

Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng đi cùng chúng con.

 

Chuyển ngữ: LM Micae Nguyễn Khắc Minh
Hiệu đính: Minh Đức

 

[1] Cẩm nang: Hướng tới một Hội thánh hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ.

[2] Tại Hội nghị Khoáng đại Bandung năm 1990, chúng tôi quyết tâm theo đuổi mục tiêu “là Giáo hội theo cung cách mới” bằng cách đẩy mạnh sự phát triển của các BEC (Cộng đồng Giáo hội Cơ bản), các Cộng đồng này sẽ đóng vai trò biểu hiện cụ thể nhất của chúng ta về một Giáo hội thực sự có sự tham gia của mọi người.

[3] Các anh em giám mục của chúng tôi thuộc Nghi lễ Syro-Malabar và Syro-Malankara đã cho chúng tôi biết về sự phát triển trước đây của một truyền thống Kitô giáo gọi là “Phương Đông Syria” vốn đã lan rộng khắp Châu Á vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất và sau đó, chủ yếu là do sứ mạng truyền giáo của Thánh Tôma Tông đồ, và vì bị bắt bớ và các yếu tố khác mà họ đã suy yếu như thế nào vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất, chỉ được hồi sinh qua các sứ mạng vào thiên niên kỷ thứ hai. Chúng tôi háo hức chờ đợi kết quả của một nghiên cứu lịch sử về chủ đề này.

[4] Những nhà truyền giáo như Thánh Phanxicô Xaviê, Matteo Ricci, Robert De Nobili, John de Britto và những người khác, là những người đầy nhiệt huyết lên đường truyền giáo. Thánh Joseph Vaz là một ví dụ khác; ngài đã đi từ Goa đến Sri Lanka để chia sẻ Phúc Âm của Chúa Giêsu. Bị từ khước và bị đày ải không làm ngài nản lòng. Ngài vẫn đến Sri Lanka và làm việc tại bến cảng như một người khuân vác để tiếp tục sứ mạng chia sẻ Tin mừng.

[5] Chúng tôi nghĩ đến chương trình Talitha Kumi.

[6] Tài liệu Hướng dẫn Đại hội FABC 50, tr. 8

[7] Đặc biệt, xem MD, 29 và CV, 42.

[8] https://www.pewresearch.org/global/2019/04/22/how-people-around-the-world-view-gender-equality-in-their-countries

[9] Being LGBTQ in Asia and the Pacific, trong https://www.undp.org/asia-pacific/projects/being-lgbti-asia-and-pacific

[10] https://www.washingtonpost.com/news/worldviews/wp/2016/06/13/here-are-the-10-countries-where-homosexuality-may-be-punished-by-death-2/, truy cập ngày 17/02/2023.

[11] https://reliefweb.int/report/afghanistan/even-if-you-go-skies-we-ll-find-you-lgbt-people-afghanistan-after-taliban, truy cập ngày 17/02/2023.

[12] https://lgbtq-economics.org/research/lgbt-adults-2019/, truy cập ngày 17/02/2023.

[13] Ủy ban kế hoạch, Chính phủ Ấn Độ, Tài liệu Kế hoạch 5 năm lần thứ 11, Q. 1, tr. 4.

[14] https://www.vatican.va/content/john-paul-ii/en/speeches/2001/april/documents/hf_jp-ii_spe_20010427_pc-social-sciences.html

[15] Thường được biết đến trong tiếng Filipino là “Simbang Gabi” để chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh

[16] Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân dịp người Công giáo Philippines kỷ niệm 500 năm Kitô giáo đến Philippines.

[17] Tài liệu Hướng dẫn Đại hội FABC 50, tr. 10.

[18] Phaolô VI, Bài giảng Bế mạc Năm Thánh (25/12/1975): AAS 68 (1976), 145.

[19] Joshua J. McElwee phỏng vấn Đức Hồng y João Braz de Aviz, trong National Catholic Reporter (12/08/2013) https://www.ncronline.org/news/world/cardinal-religious-those-who-abandon-vatican-ii-are-killing-themselves, truy cập ngày 19/02/2023.

[20] X. Predicate Evangelium, Lời mở đầu, số 10.

[21] X. https://www.npr.org/2023/01/25/1151328275/pope-francis-says-being-homosexual-isnt-a-crime, truy cập ngày 19/02/2023.

[22] X. Hội đồng Giám mục Ấn Độ (CBCI) Đại hội lần thứ 29, 2010.

[23] Klaus Schwab, “The Fourth Industrial Revolution: what it means, how to respond”, Diễn đàn Kinh tế Thế giới, https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-fourth-industrial-revolution-what-it-means-and-how-to-respond/, truy cập ngày 29/06/2017.

[24] https://www.un.org/en/climatechange/paris-agreement, truy cập ngày 15/02/ 2023.

[25] Câu chuyện thời thơ ấu do Thánh Luca tường thuật, thường được kết hợp với các yếu tố bắt nguồn từ câu chuyện của Thánh Mátthêu, đã đưa đến những mô tả truyền thống của chúng ta về khung cảnh Bêlem. Thay vì một ngôi nhà thông thường, chúng ta thấy mình trong một máng cỏ, trong một chuồng bò đã trở thành cái rốn của thế giới, thành điểm gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và nhân loại, nơi các thiên thần và con người gặp nhau, nơi cừu và người chăn cừu trú ngụ, nơi những người nghèo khổ và các đạo sĩ phủ phục thờ lạy Chúa Hài Đồng.

[26] Bài giảng của Đức giáo hoàng Phanxicô tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, Thứ sáu 6/01/ 2023, lễ Hiển linh.

[27] G. Gregory Gay, C.M., Thư của Bề trên Tổng quyền gửi các Thành viên Gia đình Vinh Sơn công bố Năm Tân Phúc Âm hoá của Gia đình Vinh Sơn, 18/07/2014.

[28] Fratelli Tutti [FT], 137.

[29] Ibid, 215.

[30] Dominus Iesus [DI], 14.

[31] Nhờ chứng từ của các giám mục Hàn Quốc, chúng tôi đã quyết tâm bắt đầu làm như các ngài đã làm khi đối thoại – cụ thể là, không còn nói về các đức tin và văn hóa bên ngoài Kitô giáo như các tôn giáo và văn hóa “khác”, mà là các tôn giáo và văn hóa láng giềng.

[32] Vì những tu sĩ Dòng Tên người Ý này chủ yếu khởi hành từ lãnh thổ Goa của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ là điểm khởi hành để đến Ma Cao ở Trung Quốc, nên có thể sự tiếp xúc của họ với những Kitô hữu Ấn Độ theo Nghi lễ Đông phương đã cho họ ý tưởng về một cách tiếp cận khác để truyền bá Phúc Âm. Chẳng hạn, các Kitô hữu Ấn Độ theo Nghi lễ Syro-Malabar thường được chú ý vì di sản Kitô giáo Thánh Thomas của họ, được hội nhập văn hóa một cách độc đáo với các phong tục truyền thống của Ấn Độ giáo, và đã được các học giả mô tả là “Hindu trong văn hóa, Kitô giáo trong đạo và Đông phương trong việc thờ phượng.” Xem Felix Wilfred, The Oxford Handbook of Christian in Asia, Oxford University Press.

[33] Một người khác là tu sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha, đã trở thành thánh tử đạo, Thánh John De Britto. Có lẽ ngài được De Nobili hướng dẫn và làm việc trong nửa sau của thế kỷ 17.

[34] R. Ellsberg, All Saints, nxb. Claretian 2008, tr. 37-38.

[35] Ibid.

[36] Chẳng hạn, trong một chỉ thị được trao cho Missions Étrangères de Paris vào năm 1659, Thánh bộ Truyền bá Đức tin đã viết: “Đừng sốt sắng hành động, đừng đưa ra bất kỳ lý lẽ nào để thuyết phục những dân tộc này thay đổi nghi thức, nghi lễ của họ. phong tục hoặc tập quán của họ, trừ khi họ rõ ràng là trái với đạo [tức là Công giáo] và phong hoá. Còn gì vô lý hơn là đưa Pháp, Tây Ban Nha, Ý hoặc bất kỳ quốc gia châu Âu nào khác vào Trung Quốc? Đừng mang đến cho họ các quốc gia của chúng ta, mà hãy mang đến cho họ Đức tin, một Đức tin không bác bỏ hoặc làm tổn hại đến các nghi thức, cũng như tập quán của bất kỳ dân tộc nào, miễn là những điều này không gây khó chịu, nhưng gìn giữ và bảo vệ chúng.” Marcel Launay; Gérard Moussay, Les Missions étrangères: Trois siècles et demi d’histoire et d’aventure en Asie, Librairie Académique Perrin, 2008, 77-83.

[37] Dun Jen Li, China in transition, 1517-1911, Van Nostrand Reinhold, 1969, 22.

[38] Sắc lệnh này trên thực tế đã minh chứng cho các phương pháp tiếp cận truyền giáo của Valignano và Ricci, chẳng hạn như đối với các nghi lễ tôn kính tổ tiên. X. George Minamiki, The Chinese rites controversy: From its beginning to modern times, Loyola University, 1985, 197.

[39] Các ĐGH Gioan Phaolô II, Bênêđictô XVI và Phanxicô ca ngợi Ricci: https://christiansforsocialaction.org/resource/heroes-of-the-faith-matteo-riccihttps://www.vatican.va/content/benedict-xvi/en/messages/pont-messages/2009/documents/hf_ben-xvi_mes_20090506_ricci.html

[40] https://www.americamagazine.org/faith/2022/12/17/matteo-ricci-sainthood-cause-244370