Chúa Nhật XXIII Thường Niên, Năm C (CN 07.09.2025) – Ngồi Xuống Tính Toán (Lc 14,25-33)

Bài đọc 1: Kn 9,13-18

Ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi ?

Bài trích sách Khôn ngoan.

13Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa ?
Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi ?
14Chúng con vốn là loài phải chết,
tư tưởng không sâu, lý luận không vững.
15Quả vậy, thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng,
cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống
vì lo nghĩ trăm bề.
16Những gì thuộc hạ giới,
chúng con đã khó mà hình dung nổi,
những điều vừa tầm tay,
đã phải nhọc công mới khám phá được,
thì những gì thuộc thượng giới,
có ai dò thấu nổi hay chăng ?
17Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời,
chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan,
chẳng gửi thần khí thánh ?
18Chính vì thế mà đường lối người phàm
được sửa lại cho thẳng,
cũng vì thế mà con người được dạy cho biết
những điều đẹp lòng Ngài,
và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.

Đáp ca: Tv 89,3-4.5-6.12-13.14 và 17 (Đ. c.1)

Đ.Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.

3Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi,
Ngài phán bảo : “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi !”4Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi !

Đ.Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.

5Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,6nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.

Đ.Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.

12Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.13Lạy Chúa, xin trở lại ! Ngài đợi đến bao giờ ?
Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây.

Đ.Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.

14Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa,
để ngày ngày được hớn hở vui ca.17Xin cho chúng con được vui hưởng
lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con.
Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố,
xin củng cố việc tay chúng con làm.

Đ.Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.

Bài đọc 2: Plm 9b-10.12-17

Xin anh hãy đón nhận anh Ô-nê-xi-mô, không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Phi-lê-môn.

9b Anh Phi-lê-môn thân mến, tôi, Phao-lô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, 10 tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô, 12 tôi xin gửi nó về cho anh ; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. 13 Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. 14 Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện. 15 Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, 16 không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến ; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. 17 Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi.

Tung hô Tin Mừng: Tv 118,135

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.

Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Chúa,

thánh chỉ Ngài, xin dạy bề tôi. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng: Lc 14,25-33

Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

25 Khi ấy, có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ :

26 “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. 27 Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.

28 “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có hoàn thành nổi không ? 29 Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi, lại không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chế giễu mà bảo : 30 ‘Anh ta đã khởi công xây, nhưng chẳng có sức làm cho xong việc.’ 31 Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? 32 Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33 Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

(Nguồn: ktcgkpv.org)

—————————

Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên

 

Mỗi chúng ta, dù muốn hay không, cũng đang từng bước tiến về tương lai. Đối với người ý thức cẩn trọng, thì tương lai là những điều tốt đẹp phía trước; đối với người nhu nhược buông xuôi, thì tương lai là một chân trời vô định. Ki-tô hữu là người lựa chọn và định hướng cho tương lai đời mình. Trong cuộc lựa chọn ấy, phải có những buông bỏ hy sinh. Bởi lẽ con người không thể hướng về trời cao mà phụ thuộc vào trần thế. Chúa Giê-su là người hướng đạo. Người hướng dẫn và đồng hành với chúng ta trên hành trình tương lai này.

Bài Tin Mừng được đọc trong Thánh lễ Chúa nhật XXIII Thường niên nằm trong ngữ cảnh Chúa Giê-su và các môn đệ đang tiến về Giê-ru-sa-lem. Thành thánh là trung tâm tôn giáo của Do Thái giáo. Nơi đây cũng có những thử thách cam go đang đợi Thầy và trò. Càng tiến về Giê-ru-sa-lem, sự căng thẳng đến từ phản ứng của các luật sĩ và biệt phái càng lên cao độ. Chúa Giê-su vẫn cương quyết lên Giê-ru-sa-lem. Sự cương quyết này được diễn tả như một mạo hiểm, đồng thời cũng là sự tuân phục thánh ý Chúa Cha và tình yêu thương nhân loại cho đến cùng.

Khi cương quyết lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su cũng muốn các môn đệ theo Người có cùng một tinh thần từ bỏ giống như Thầy mình. Một lần nữa chúng ta được nghe những lời có vẻ “chối tai”. Đó là phải “dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em chị em và cả mạng sống mình”. Nếu đặt những lời này trong toàn bộ giáo huấn của Chúa Giê-su, chúng ta có thể hiểu rõ hơn điều Người muốn nói. Chúa Giê-su muốn cho chúng ta thấy, bước đi theo Người đòi hỏi hy sinh buông bỏ, đôi khi đó là những người thân hoặc là những sở thích rất chính đáng theo quan niệm thông thường.

Cũng cần lưu ý đến bối cảnh xã hội cụ thể khi Tin Mừng thánh Lu-ca được viết ra: vào thời đó, đã có những người gốc Do Thái trở lại Ki-tô giáo, và cũng có những người dân ngoại xin theo Đạo. Những người này, khi chấp nhận gia nhập Giáo Hội non trẻ, đã bị gia đình ruồng bỏ, khai trừ, thậm chí đe dọa giết chết. Vào khoảng năm 90 SCN, những người lãnh đạo Do Thái giáo đã quyết định những ai tin Chúa Giê-su thì bị trục xuất khỏi hội đường. Chắc hẳn đã có nhiều tín hữu gốc Do Thái lo sợ rút lui và bỏ Đạo. Trong bối cảnh này, Lu-ca nhớ lại lời giảng dạy của Chúa. Ông chứng minh cho mọi người biết, Chúa đã báo trước tình trạng này, để khuyên những người dự tòng và tân tòng hãy vững tin, vì phần thưởng Chúa ban cho người trung tín rất lớn lao.

Để tránh cho những người đang nghe khỏi sốc, Chúa Giê-su lấy hình ảnh người chuẩn bị xây tháp. Để thành công, người này phải tính toán những điều kiện liên quan. Chúa cũng dùng hình ảnh một vị vua chuẩn bị giao chiến, cần phải biết mình biết người thì mới nắm chắc phần thắng. Qua đó Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta hãy khôn ngoan chọn lựa và định hướng cho tương lai đời mình, để không rơi vào thất vọng và không chạy theo những ảo ảnh hư vô.

Những hy sinh buông bỏ hôm nay, không trở nên vô nghĩa. Bài đọc II trích thư của thánh Phao-lô gửi ông Phi-lê-môn đã nói lên điều đó. Ông Phi-lê-môn là một tín hữu đạo đức nhiệt thành. Ô-nê-xi-mô là một chàng trai trẻ giúp việc cho ông này. Chàng thanh niên đã có những hành động gian trá và bị đuổi đi. Thánh Phao-lô sau khi đã đón nhận và giáo huấn chàng trai này, muốn gửi lại và xin ông Phi-lê-môn đón nhận “như đón nhận người ruột thịt của tôi”. Ở câu cuối của Bài đọc, ngài còn nói “Xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Những lời lẽ và tâm tình của thánh Phao-lô cho thấy, trong Chúa Giê-su, tất cả mọi người đều trở nên thân thiết, thậm chí như người ruột thịt. Những lời của vị Tông đồ dân ngoại cũng diễn tả lòng nhân hậu Ki-tô giáo, niềm hy vọng đời sau và giá trị của nghĩa cử tha thứ. Quả thật, lòng bác ái vị tha Ki-tô giáo sẽ là mối giây thiêng liêng kết nối mọi người trong cùng một đức tin, là bảo đảm cho hạnh phúc vĩnh cửu.

Chúng ta đang hướng về tương lai. Nhưng làm sao biết rõ được tương lai, vì tương lai chỉ là dự tính và mong ước của con người? Tác giả sách Khôn ngoan cùng chung một băn khoan (Bài đọc I). Ông đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi?”. Từ vấn nạn này, tác giả cầu xin Chúa ban Đức Khôn Ngoan, để biết phân định phải trái, nhờ đó mà đạt được hạnh phúc lâu dài. Theo nhãn quan Ki-tô giáo, Đức Khôn Ngoan (viết hoa) là một trong những danh hiệu nói về Chúa Giê-su. Người là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể. Người đang sống và hiện diện giữa chúng ta để soi sáng cho chúng ta biết con đường về nhà Cha, là con đường tương lai soi sáng cho cuộc đời.

Cùng với tác giả Thánh vịnh, chúng ta cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan”. Cuộc sống hằng ngày đầy những toan tính và cạnh tranh. “Đếm tháng ngày mình sống” là cách sử dụng hợp lý thời gian và khả năng Chúa ban, để không để hoang phí những gì chúng ta đã đón nhận. Giữa một mớ hỗn độn ấy, xin Chúa luôn soi sáng và hướng dẫn chúng ta.

+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

(Nguồn: tonggiaophanhanoi.org)

—————————

Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh

 

TỰ DO DẤN THÂN

 

Tự do là yếu tố then chốt trong tôn giáo cũng như trong tình yêu, đem lại cho việc hành đạo và đem lại cho tình yêu giá trị cao quý của nó.  Không có tự do, ngay cả việc làm đạo đức cũng giảm hết giá trị, làm việc dưới sức ép và sự đe dọa có thể mang lại thành tựu kinh tế vật chất, nhưng sẽ giảm thiểu đi đến triệt tiêu giá trị đạo đức.  Tự do nội tâm là điều kiện tiên quyết trong ơn gọi làm linh mục, tu sĩ và ngay cả trong bí tích hôn phối.

Đức Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem (Lc 13, 22), Người biết Người đi về đâu và sự gì chờ đợi Người tại thành thánh Giêrusalem.  Cái chết ! Người quả quyết lên Giêrusalem một cách tự nguyện với đầy đủ ý thức, để hoàn tất ơn cứu chuộc nhân loại.  Sự tự nguyện của Người không gây sứ ép trên người khác.  Người tôn trọng tự do của môn đệ.  Bằng một cử chỉ biểu tượng, Đức Giêsu quay lại phía đám đông đang đồng hành với Người, Người tuyên bố minh bạch những điều kiện khắt khe và dứt khoát cần phải có cho kẻ muốn làm môn đệ của Người.
Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ: ‘Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được’”.  (c. 25-27. Bài Tin Mừng Lc 14,25-33).  Đó là sự thách đố có phần mâu thuẫn của Tin Mừng.  Sự lựa chọn nầy nghiêm trọng như thể xây một tòa tháp hay dẫn binh đi đánh trận, nó đòi hỏi một sự dấn thân triệt để, phải đắn đo cân nhắc cẩn thận trước khi bắt tay vào việc.

Cần phải có Đức Khôn Ngoan tham dự, con người mới có thể làm việc lựa chọn đúng đắn như thế và nhờ vậy họ được cứu độ.  Nhờ Đức Khôn Ngoan “đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Thiên Chúa và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ” (Bài đọc 1. Kn 9, 18).  Dĩ nhiên đây là khôn ngoan theo cái nhìn từ phía Thiên Chúa chứ không phải là khôn ngoan theo kiểu trần thế.  Sự khôn ngoan của Thiên Chúa và của trần gian thường đối đầu nhau.

Cái khôn ngoan mà thánh Phaolô khi ngồi tù đã năn nỉ ông Philêmôn thay đổi quan niệm về tương quan giữa ông chủ và đầy tớ, và thay thế vào đó là tương quan huynh với đệ, đối với người nô lệ có tên là Ônêximô, người nô lệ nầy đã bỏ ông chủ mình là Philêmôn mà trốn; và thánh nhân đã van xin ông Philêmôn nhận lại người nô lệ đó bằng những từ ngữ rất đáng thán phục: “Ô-nê-xi-mô đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến” (Bài đọc 2. Pl 15-16). Thánh Phaolô đã xin người bạn của mình tự nguyện làm sự khôn ngoan bằng thay đổi mối tương quan chủ – nô thành huynh – đệ, mà không làm mất tự do của một ông chủ.  Chỉ trong tình yêu của Đức Kitô thánh Phaolô mới dám lên tiếng van xin.

Trong sự lựa chọn theo kiểu khôn ngoan của Thiên Chúa, ta thấy có sự đảo lộn bậc thang giá trị, có khả thể kiến tạo một nô lệ thành người anh em, nó bao hàm một sự vượt lên trên những tình cảm thông thường, tạo ra một tương quan bằng hữu, một chân trời mới đầy yêu thương và tha thứ.  Việc dấn thân theo Đức Giêsu cũng vậy, không phải là tình cảm tự nhiên, thích thì ở, dở thì bỏ đi.  Nhưng nó luôn đòi hỏi sự cương nghị và dứt khoát chấp nhận bổn phận như thập giá hằng ngày, là cái giá phải trả cho việc chọn lựa làm môn đệ của Đức Giêsu.

Thay đổi một quan niệm sống cố cựu nơi một con người là chuyện rất nhiêu khê vì ‘giang sơn dễ đổi bản tính khó dời’ người ta vẫn thường nói như vậy, nhất là khi con người đó lại có chức quyền, có địa vị xã hội, có tiền bạc thì việc chuyển đổi một quan niệm sống càng khó khăn hơn.  Tuy nhiên con người đạo đức luôn có khả năng xuất phát lại từ Chúa Kitô, việc thánh Phaolô xin ông Phi-lê-môn thay đổi cách cư xử với tên nô lệ Ô-nê-xi-mô là chuyện rất khó, nó đòi hỏi một lòng đạo đức sâu xa, một tâm hồn quảng đại không gim gút, một sự khiêm nhượng thẳm sâu mới có thể thực hiện được.  Thay đổi một quan niệm sống cho phù hợp với đạo thánh Chúa Giêsu là việc làm siêu nhiên cần có ơn phù trợ của Thiên Chúa.

 Điều kiện theo chân Đức Giêsu không mấy hấp dẫn vì nó khắc nghiệt nhưng nó đem lại sự sống và hạnh phúc cho những ai đuợc Thánh Thần hướng dẫn.  Điều kiện nầy được văn hào Paul Claudel (1868-1955 người Pháp) mô tả qua tác phẩm “La porte étroite” (Khung cửa hẹp) như quy luật của sự sống.  Khung cửa hẹp, con đường thập giá, tiến trình phát triển của hạt lúa mì gieo xuống đất bị thối nát đi, là những kiểu nói thường được nhắc lại vào mùa Chay mà Đức Giêsu đã trải qua để mang lại ơn cứu độ.  Con đường nầy Đức Giêsu đã chọn và thực hiện qua biến cố tử nạn và phục sinh, con đường được Thư Phi-lip-phê ca tụng (Pl 2, 8-11), con đường ‘tự hủy ra không’ của Đức Giê-su.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tuyên xưng Chúa trên môi miệng nhưng có khi trong cuộc sống chúng con không dứt khoát hoàn tất bổn phận hằng ngày như điều kiện cần có để làm môn đệ của Chúa.  Xin thêm cho con đức can đảm. Amen

Lm. Lu-y Nguyễn Quang Vinh, Giáo xứ Đức An, Pleiku

____________________________

Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên

 

TỪ BỎ HẾT

 

Suy niệm

Trên đường “tiến lên Giêrusalem”, có rất đông người theo Chúa Giêsu. Họ hy vọng Ngài làm nên một cuộc cách mạng, đánh bại ngoại bang, giành chiến thắng cho dân tộc sau bao năm nhục nhằn. Họ chờ đợi Đấng Mêsia cũng là vì thế, và hôm nay họ đã thấy những dấu chỉ đó nơi Ngài. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã bất ngờ làm vỡ tan những ước vọng trần tục của họ bằng một lời mời gọi gây sốc: “Ai đến với Ta mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”.

Nghe xong, có lẽ nhiều người ngỡ ngàng, thậm chí hụt hẫng. Đi theo Chúa không phải chỉ để tìm sự an ủi, phép lạ hay bữa ăn no nê sao? Thế mà Người lại đòi hỏi một sự chọn lựa dứt khoát, một sự từ bỏ triệt để. Nhiều Kitô hữu chúng ta hôm nay cũng dễ rơi vào tình cảnh đó: thích được Chúa chữa lành, ban ơn, phù hộ; nhưng ngại dấn thân phục vụ, đi vào con đường hẹp, đường hy sinh của thập giá.

Lời Chúa hôm nay cũng chất vấn chúng ta: ta có phải là môn đệ thực sự của Đức Giêsu hay chỉ là môn đệ trên “danh nghĩa” chứ không phải trên “danh phận”. Người môn đệ thật không chỉ từ bỏ tội lỗi, dục vọng, thói xấu, mà có những khi còn phải từ bỏ cả những điều thân thương nhất: cha mẹ, vợ con, và chính mạng sống mình.

“Từ bỏ” ở đây không có nghĩa là chối bỏ gia đình hay quay lưng lại với những người thân yêu, nhưng là đặt tình yêu Đức Kitô trên hết, “yêu họ ít hơn để yêu Chúa nhiều hơn” (x. Mt 10,37). Chính tình yêu tuyệt đối ấy không làm ta lạnh nhạt với gia đình, trái lại giúp ta yêu thương họ cách đúng đắn và sâu xa hơn, bởi ta yêu họ trong Chúa và vì Chúa. Chúng ta càng thuộc trọn về Chúa thì càng biết yêu thương gia đình và mọi người trong sự thật, trong tự do và dấn thân phục vụ.

Từ bỏ trong Tin Mừng không phải là mất mát, nhưng là một sự giải thoát: giải thoát khỏi ràng buộc của ích kỷ, của sự chiếm hữu, của nỗi sợ hãi để bước vào tự do đích thực – tự do để yêu thương và phục vụ.

Đời ai cũng phải chọn lựa và từ bỏ. Không bỏ cái này thì không thể chọn cái kia. Người đời từ bỏ để có một cuộc sống thuận lợi hơn, thành công hơn. Nhưng sự từ bỏ của người Kitô hữu không chỉ thuộc phạm vi tự nhiên mà còn là siêu nhiên: là nên hoàn thiện “như Cha trên trời”. Thế nên sự từ bỏ này phải triệt để, không thể nửa vời.

Đó cũng là điều Chúa Giêsu cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Nhiều người khởi sự nhưng không hoàn tất, chiến đấu nhưng không chiến thắng, vì còn sống dễ dãi, giữ thái độ cầm chừng. Chúa Giêsu muốn người theo Ngài phải nhiệt thành, dấn thân, chứ không “cầm cày mà còn ngoái lại phía sau” (x. Lc 9,62).

Thoạt đầu, các Tông đồ cũng theo Chúa với động cơ trần tục: mong quyền hành, địa vị. Nhưng dưới ánh sáng Phục Sinh và sức mạnh Thánh Thần, các ông đã được thanh luyện, đã can đảm từ bỏ tất cả để làm chứng cho Tin Mừng, thậm chí hiến cả mạng sống. Đó chính là hành trình trưởng thành trong đời sống Kitô hữu của chúng ta : từ ảo tưởng đến hiến thân trọn vẹn.

Trong xã hội hiện đại, nhiều người chọn con đường dễ dãi hơn là con đường cao cả, chọn thú vui chóng qua thay vì hạnh phúc bền vững, chọn lợi ích riêng tư thay vì lợi ích chung. Người Kitô hữu thì khác: chúng ta chọn bước theo Đức Giêsu, chọn con đường từ bỏ. Chính Ngài đã từ bỏ vinh quang Thiên Chúa để mặc lấy thân phận phàm nhân, đã sống nghèo hèn, chịu khổ hình và chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại chúng ta. Chỉ có tình yêu sâu thẳm của Đức Kitô mới có thể cứu chuộc con người. Cũng với tình yêu đó, Chúa mời gọi chúng ta hãy tiến bước theo Ngài, để đem lại cuộc sống mới cho tha nhân.

Từ bỏ chính là cách diễn tả tình yêu. Ai yêu thật sự thì sẵn sàng từ bỏ tất cả cho người mình yêu. Chính tình yêu làm thăng hoa và đổi mới mọi sự trong cuộc sống này để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau, nơi “trời mới đất mới”. Khi tình yêu Chúa đã thấm sâu vào trong tim, thì việc từ bỏ không còn là gánh nặng, mà trở thành niềm vui, thành sự thúc bách, để ta sống cho Đức Kitô và thuộc trọn về Ngài, là “Đấng đã yêu tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20).

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Để có thể thành người môn đệ Chúa,
Ngài mời gọi con sống đời từ bỏ,
không chỉ từ bỏ những gì con có,
mà còn là từ bỏ cả chính mình,
để vác lấy thập hình đi theo Chúa.

Đời sống con vẫn có thêm mỗi ngày.
hôm nay chưa dính bén mai lại có,
điều bỏ từ lâu nay lại dính bén,
nên con phải tập mãi để cho quen.

Từ bỏ là cách diễn tả tình yêu,
khi yêu con mới sẵn sàng từ bỏ,
từ bỏ những cái xấu không nói gì,
còn bỏ cái tốt chọn điều tốt hơn.

Từ bỏ như điều kiện để giải thoát,
khỏi những gì kiềm buộc và tù hãm,
tránh cho con khỏi mọi thứ tham lam,
để tâm con nhẹ nhàng và thanh thản,
không âu sầu vì nặng gánh lo toan.

Từ bỏ vẫn luôn là một điều khó,
vì con thích dung dưỡng và dễ dãi,
để được sống an nhàn và thoải mái,
nhưng con thấy bất an và bất xứng,
với sứ mạng làm nhân chứng cho Ngài.

Xin cho con dám sống đời từ bỏ,
từ bỏ hoài từ bỏ mãi không ngơi,
cho đến khi gặp được Chúa muôn đời,
nơi vinh phúc sáng ngời con mong đợi.
là nên một với Chúa trên quê Trời. Amen

Lm. Thái Nguyên

____________________________

Suy niệm 4: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ

 

“Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:33).

Quý ông bà và anh chị em thân mến,

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại lời mời gọi bước theo Chúa Giê-su với tinh thần từ bỏ, từ bỏ những rào cản khiến bản thân không thể theo Chúa cách tự do, hồn nhiên và bình an. Quý vị có nhận thấy đây là một lời mời gọi chứa đầy thách đố không? Đâu là những rào cản trong hành trình bước theo Chúa mà quý vị đang phải đối diện?

Những rào cản mà Chúa Giê-su nhắc tới trong đoạn Lời Chúa hôm nay chính là cha mẹ và những người thân thuộc, mạng sống của chính mình, việc e ngại vác thập giá của bản thân, và những gì chúng ta đang sở hữu.

Chúa mời gọi chúng ta hãy từ bỏ “cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, v.v.”. Lời mời gọi này có vẻ phi lý, thiếu thuyết phục, bởi lẽ “cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, mạng sống…” là những mối tương quan căn bản nhất của một con người, một hữu thể được ném vào thế gian để tồn tại và phát triển. Dứt bỏ “cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, mạng sống…” chẳng khác gì bảo người ta “tự tử”, biến khỏi thế gian này ngay tức khắc. Tuy nhiên, Chúa Giê-su muốn nói về một chiều kích khác. Thực thế, “cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, mạng sống…” là những gì con người cần, buộc phải giữ gìn và thăng hoa, nhưng nếu con người đặt “cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, mạng sống…” lên trên Chúa thì đó là rào cản khiến con người không thể được chạm vào Chúa và Chúa không thể đụng được tới con người. Đó cũng là một sự lệch lạc trong mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Như vậy, con người cần có “cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, mạng sống…” nhưng con người không thể phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và đặt Người lên trên tất cả, bởi vì Thiên Chúa siêu vượt và làm chủ trên “cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, mạng sống…” của mỗi người.

Một gia đình luôn có Chúa ở giữa, gia đình đó sẽ hạnh phúc, sẽ có đủ sức mạnh vượt thắng những khủng hoảng và thách đố trong đời sống hôn nhân gia đình, đủ niềm tin và sức mạnh để hàn gắn những đổ vỡ trong đời sống ấy.

Một con người ý thức vai trò của Thiên Chúa trong cuộc đời họ, sự cao cả của Thiên Chúa và để Người dẫn dắt, họ sẽ không cảm thấy cô đơn và mất phương hướng trên đường đời, đủ can đảm sống “đơn thân độc mã” ở mọi chốn gần xa.

Một tu sĩ và giáo sĩ quên mất Chúa Giê-su chính là đối tượng họ đang bước theo và phục vụ, họ sẽ bị quyến luyến lệch lạc, quên đi lý tưởng, không dám đương đầu với khó khăn và gian khổ trên đường sứ vụ. Họ sẽ bám víu vào thế gian (tiền bạc, chức vụ, tham vọng…) và nương tựa vào những thứ dễ dàng bị đổ ngã bất cứ lúc nào. Họ sợ hãi trước thách đố. Họ nguỵ biện trước thử thách và sự ươn hèn. Họ lo lắng về sức khỏe và sự an toàn khi được giao sứ mạng.

Hy vọng với những gợi ý nhỏ bé này, mỗi người chúng ta sẽ có thêm nhiều gợi hứng trong giờ cầu nguyện sắp tới và nhận ra những rào cản nơi bản thân trên con đường theo Chúa Giê-su vác thập giá, đó có thể là sự bám víu vào thế gian, sự quyến luyến những hư danh trần thế, sự lệch lạc trong mối tương quan, v.v..

Để minh họa về hình ảnh của những cản trở làm cho chúng ta lãng quên Thiên Chúa hoặc không thể chọn Chúa trên mọi điều khác, hoặc không dám buông bỏ để rồi không làm được điều Chúa muốn, người viết xin gửi tới quý vị một câu chuyện sau:

Số là, người Ấn Độ nghĩ ra một cách bẫy khỉ khá thú vị. Họ làm những cái lồng có cái cửa nhỏ vừa bằng bàn tay của khỉ, rồi đặt vào đó một vài quả trứng. Khỉ tới lồng nhặt trứng. Lúc này khỉ không thể rút tay ra khỏi lồng vì tay đã to hơn cửa lồng. Khỉ không chịu buông và cứ nắm chặt quả trứng. Thế là khỉ trúng bẫy. Người ta chỉ việc tới bắt khỉ đem nhốt mà thôi.

Chúc quý vị cầu nguyện sốt sắng!

(Lm Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ – Giáo xứ Hoa Lư, Pleiku)

WGPKT(04/09/2025) KONTUM