
Bài đọc 1: 2 Mcb 7,1.20-23.27b-29
Bà mẹ là người đáng khâm phục, vì bà can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa.
Bài trích sách Ma-ca-bê quyển thứ hai.
1 Hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm.
20 Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. 21 Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng ; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi ; bà nói với các con : 22 “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. 23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.”
27b Bà nói với người con út : “Con ơi, con hãy thương mẹ : chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. 28 Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. 29 Con đừng sợ tên đao phủ này ; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.”
Đ.Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
1Khi Chúa dẫn tù nhân Xi-on trở về,
ta tưởng mình như giữa giấc mơ.2abVang vang ngoài miệng câu cười nói,
rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
Đ.Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
2cdBấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán :
“Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay !”3Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại !
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.
Đ.Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
4Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về,
như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam.5Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Đ.Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
6Họ ra đi, đi mà nức nở,
mang hạt giống vãi gieo ;
lúc trở về, về reo hớn hở,
vai nặng gánh lúa vàng.
Đ.Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Dù sự chết hay sự sống cũng không tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
31b Thưa anh em, có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta ? 32 Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta ? 33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn ? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính ? 34 Ai sẽ kết án họ ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta ?
35 Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? 36 Như có lời chép : Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.
37 Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.
38 Đúng thế, tôi tin chắc rằng : cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ. Ha-lê-lui-a.
Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với mọi người rằng : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ? 26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.”
(Nguồn: ktcgkpv.org)
—————————
Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Hằng năm, Giáo Hội Công giáo hoàn vũ tôn vinh 117 thánh Tử Đạo Việt Nam. Các ngài là niềm tự hào của một cộng đoàn Ki-tô hữu đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Các thánh Tử Đạo đã gieo trong đau thương và ngày nay được gặt trong vui mừng. Các ngài đã đổ máu đào để làm chứng cho Chúa từ năm 1745 đến năm 1862, dưới những triều đại kế tiếp nhau của triều đình Nhà Nguyễn.
Khi tôn vinh các thánh Tử Đạo, Ki-tô hữu được mời gọi nhận ra nơi cuộc sống và chứng từ của các Ngài cho đời sống cụ thể hôm nay. Bởi lẽ trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta đều phải khôn ngoan chọn lựa những gì bền vững cho tương lai đời mình. Các thánh Tử Đạo của chúng ta bị đặt trước sự chọn lựa: hoặc là chọn chối bỏ đức tin để được sống; hoặc là chọn cái chết nếu muốn trung thành với đức tin. Sinh ra ở đời, không ai muốn chết. Trái lại ai cũng muốn sống và sống hạnh phúc bình an. Các ngài bị dồn vào hoàn cảnh phải chọn lựa, và các ngài đã chọn trung thành với Chúa dù phải hy sinh mạng sống của mình.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam nói với chúng ta về một đức tin phổ quát, mang tính hoàn vũ: trong số 117 thánh Tử Đạo, có các vị là thừa sai Tây Ban Nha (11 vị), người Pháp (10 vị) và những người Việt Nam (96 vị). Trong số các thánh người Việt Nam, có linh mục, kẻ giảng, giáo dân, có nam và có nữ. Giáo Hội của Chúa bao gồm mọi chủng tộc và mọi quốc gia. Ơn tử đạo không chỉ dành riêng cho những người ưu tú, nhưng cho tất cả những ai một lòng trung tín với Chúa.
Chứng từ anh hùng của các thánh Tử Đạo Việt Nam khẳng định với chúng ta rằng sức mạnh của Thiên Chúa thể hiện nơi những con người yếu đuối. Thánh Phao-lô viết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (x.Rm 8,31-39). Trong số các thánh Tử Đạo Việt Nam, có những người xuất thân là những người quê mùa, hiền lành chất phác, thậm chí có người không bao giờ ra khỏi làng. Ấy vậy mà khi đối diện với quan lại và những người cầm quyền, các ngài trở nên những người khôn ngoan mạnh mẽ can đảm. Người dân thời đó hết sức ngạc nhiên trước sự bình tĩnh an vui của các ngài trên đường đến pháp trường. Đó là sức mạnh đến từ Chúa, Đấng nâng đỡ những người yếu đuối và ban ơn cho những người tín trung. Thánh Phao-lô đã trải nghiệm nhiều gian nan khốn khó và kết luận với lời Chúa phán: “Ơn Ta đủ cho con!” (2 Cr 12,9).
Phần thưởng tương lai là kết quả của những cố gắng trong hiện tại. Ki-tô hữu là những người đang gieo hạt nhân đức ở đời này, với hy vọng sẽ gặt hái vinh quang trong tương lai. Nếu người nông dân khi gieo chưa nhìn thấy cây lúa và chưa biết mùa gặt sẽ ra sao, thì Ki-tô hữu lại vững niềm trông cậy vào quyền năng Thiên Chúa, Đấng hứa ban thưởng cho người công chính. Các thánh Tử Đạo là những người vững niềm trông cậy vào Chúa và hôm nay các ngài đang hân hoan gặt lúa là thành quả đến từ lòng trung tín của mình. Cử hành lễ kính các thánh Tử Đạo, người tín hữu nhận ra sứ mạng gieo hạt của mình trong đời sống cụ thể, với những thuận lợi và khó khăn, với thành công và thất bại. Chúng ta là người gieo hạt, Thiên Chúa là Đấng làm cho hạt giống mọc lên, rồi sinh hoa kết trái. Hạt giống mà chúng ta đang gieo mỗi ngày là hạt giống yêu thương, an bình và bao dung quảng đại.
“Máu người có Đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu”. Quả vậy, cộng đoàn Công giáo gồm hơn tám triệu tín hữu tại Việt Nam hôm nay (và những người Công giáo gốc Việt đang sống ở hải ngoại), là hoa trái từ đau khổ và máu của các bậc Tiền Nhân. Các ngài đã chấp nhận mọi gian nan khổ hình, trong niềm xác tín: Thiên Chúa sẽ làm trổ hoa công chính từ những đống tro tàn.
Đời sống tín hữu luôn đi liền với ơn gọi Tử Đạo. Quả vậy, nếu ngày hôm nay, tại Việt Nam, không còn cảnh máu chảy đầu rơi vì đức tin, thì vẫn có các cuộc “Tử Đạo không đổ máu” diễn ra mỗi ngày. Để trung thành với Luật Chúa và Giáo Hội, tín hữu cần có ơn can đảm để không thỏa hiệp với những điều không được phép làm. Để giáo dục và hướng dẫn con cái giữ vững đức tin, tín hữu phải cảnh giác trước những nguy hiểm rình rập, do lối sống hưởng thụ và vô thần. Để làm chứng cho Chúa Giê-su, tín hữu phải hiểu biết về Người và cần có một đời sống tốt lành gương mẫu. Tất cả những điều đó, đều cần đến sự kiên nhẫn hy sinh, và đó là sống tinh thần Tử Đạo.
Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong Thư Chung năm 2025, ước mong các tín hữu Việt Nam ý thức về ơn gọi thừa sai và trở nên những nhà truyền giáo cụ thể trong môi trường hằng ngày như gia đình, cộng đoàn và lối xóm. Khi thực hiện những điều này, chúng ta sẽ trở nên những người gieo mầm yêu thương và là chứng nhân của Chúa giữa đời.
Xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu cho chúng con. Amen.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
—————————
Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh

MÁU VÀ ĐỨC TIN
Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc
và Các Bạn Tử Đạo (24. 11. hằng năm)
2Mcb 7, 1.20-23.27b-29; Rm 8, 31b-39; Lc 9, 23-26
“Máu các Tử đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. Đức tin nầy tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần tuý sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của Chúa Kitô.” Trích bài giảng của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (số 6) dịp phong thánh, Rôma 19. 6. 1988.
Vinh quang và danh dự cho Giáo Hội Việt Nam! Một Giáo Hội trưởng thành trong nước mắt. Giáo Hội Việt Nam đã vượt qua những bách hại không thua kém gì Giáo Hội Rôma vào thế kỷ đầu khi Kitô giáo mới phôi thai. Sau cái chết của Đức Giêsu thành Nadarét, sự việc cứ tưởng sẽ êm xuôi, người chết sẽ đi vào quên lãng theo thời gian. Nhưng không! Đó là điểm khởi đầu cho một tôn giáo lớn mạnh. Phân bón và chất xúc tác làm trưởng thành Giáo Hội Rôma lại là việc bắt đạo cực kỳ gay gắt của hoàng đế Nerôn, một bạo chúa điên loạn, độc ác, đã tự tay giết vợ, mẹ và con của mình. Ông đã cho đốt thành Rôma để lấy hứng làm thơ tiêu khiển, để chạy tội trước nhân dân, ông đã khéo léo đổ lỗi cho người Kitô hữu đốt thành Rôma.
Thế là cuộc bách hại tàn khốc bùng nổ! Những cực hình man rợ nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra đều trở thành hiện thực đem áp dụng cho người Kitô hữu thời sơ khai: đâm chém, chặt đầu, phân thây, đóng đinh thập giá hay đốt như đuốc. Người Kitô hữu trở thành trò đùa tiêu khiển cho dân thành phố, họ bị lột trần thả vào hầm thú dữ làm mồi ngon cho chúng. Hí trường Côlisêô tại Rôma ngày nay là chứng tích đau thương ngày xưa. Thánh Phêrô bị đóng đinh vào năm 64 và Phaolô bị giết vào năm 67 thời Nerôn. Câu chuyện bắt đạo không ngớt được lặp lại nơi lịch sử các Giáo hội khác.
Giáo Hội Việt Nam không thua kém gì về mặt đau thương. Văn sĩ công giáo Tertulianô để lại di ngôn bất hủ: “Máu các vị Tử đạo là hạt giống sinh người Kitô hữu” (Sanguis Martyrum semen Christianorum). Việc rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam ở giai đoạn đầu gặp thuận lợi : Năm 1591 công chúa Mai Hoa, chị của vua Lê Trang Tông đã được giáo sĩ De Cevallos rửa tội. Năm 1624 cha Đắc-Lộ đã rửa tội cho Minh Đức Vương Thái Phi (1568-1648) vợ thứ của Chúa Nguyễn Hoàng tại Kim Long, Huế. Bước khởi đầu thuận lợi đó chẳng bao lâu qua đi, tiếp theo là gần 300 năm bắt đạo, với nhiều lý do chính trị, văn hóa đan xen nhau.
Thời gian bắt đạo kéo dài từ 1580 và kết thúc vào 1888. Với nhiều hình khổ đa dạng: lưu đày, lao tù, gông cùm, xiềng xích, xử trảm, xử giảo, bá đao, thiêu sống, lăng trì. Kết quả không phải chỉ có 117 vị tử đạo được phong hiển thánh mà thôi, nhưng ước tính có đến 300.000 vị được phúc tử đạo. Và qua nhiều triều đại giáo hoàng đã phong Chân phước: năm 1900 Đức Lêô XIII phong 64 vị; năm 1906 Đức Piô X phong 8 vị; năm 1909 Đức Piô X phong thêm 20 vị; năm 1951 Đức Piô XII phong 25 vị.
Dòng máu tử đạo còn tiếp tục chảy và được vinh danh nơi một giáo dân, cũng là giáo lý viên Anrê Phú Yên (1625-1644), đó là “Người chứng thứ nhất” của Giáo hội Việt Nam, theo cách gọi của cha Đắc-Lộ, được tôn phong Chân phước ngày 5. 3. 2000 do Đức Gioan Phaolô II tuyên phong tại Rôma. Và chúng ta còn chờ đợi kết quả hồ sơ phong thánh của một vài vị khác: Tôi Tớ Chúa Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, Thầy Marcel Văn Dòng Chúa Cứu Thế. Linh mục Trương Bửu Diệp rất nổi tiếng.
Những trang sử oai hùng của tiền bối làm chúng ta ngửng cao đầu. Tuy nhiên đừng quên sống đức tin và truyền đạt đức tin cho thế hệ tương lai. Đức tin đòi chúng ta vượt qua tất cả, ngay đến hy sinh mạng sống, “ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô?” ( Bài đọc 2. Rm 8, 31b-39). Quê thật chúng ta ở trên trời, đó là niềm hy vọng được xây dựng trên lời hứa của Đức Giêsu Kitô, tin thật như vậy chúng ta đành mất mạng sống để được sự sống đời đời (x, Bài Tin Mừng Lc 9,23-26).
Lạy Chúc Giêsu, con cảm tạ đội ơn Chúa đã ban cho Hội thánh Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng trung kiên làm chứng cho đức tin. Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bàu cho người dân Việt biết đón nhận và sống đạo theo gương các ngài. Amen
Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh, giáo xứ Đức An, Pleiku
_______________________
Suy niệm 3: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ

(Lm Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ – Giáo xứ Hoa Lư, Pleiku)
![]()
WGPKT(14/10/2025) KONTUM
