Hãy Đến Bái Lạy Người– Chúa Nhật Chúa Hiển Linh – Năm C (CN.02.01.2022)

BÀI ĐỌC I: Is 60, 1-6

“Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi”.

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi. Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông. Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.

Đó là lời Chúa.

BÀI ĐỌC II: Ep 3, 2-3a. 5-6

“Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa”.

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.

Đó là lời Chúa.

Lời Chúa: Mt 2, 1-12

“Chúng tôi từ phương Đông đến thờ lạy Đức Vua”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”.

Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người”. Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.

Đó là lời Chúa.

———————

Suy niệm 1:                     Linh mục Luy Nguyễn Quang Vinh

Hãy Đến Bái Lạy Người

Ngôi Lời làm người luôn luôn là một mầu nhiệm đối với nhà thần học cũng như đối với giới bình dân. Ngôi Lời Thiên Chúa xuống thế làm người có tên gọi là Đức Giêsu, Người là một thực tại khó hiểu, là mầu nhiệm, mầu nhiệm “Giêsu” không khác với mầu nhiệm Thiên Chúa.  Đức Giêsu là sự xuất hiện ra bên ngoài của Thiên Chúa mà Thiên Chúa thì không ai thấy bao giờ, người ta thấy việc Đức Giêsu làm và nghe lời Đức Giêsu nói, từ đó hiểu về Thiên Chúa.  “Hiển linh” có nghĩa Thiên Chúa tỏ mình ra. 

Thiên Chúa tỏ mình ra trong Đức Giêsu qua mầu nhiệm nhập thể, chính nơi bản thân Đức Giêsu, Thiên Chúa bộc lộ chính mình qua những việc Đức Giêsu  làm và các lời Người giảng dạy, như vậy tất cả con người của Đức Giêsu là trọn vẹn mặc khải và trình bày về Thiên Chúa.  Nhân loại biết được gì về Thiên Chúa là nhờ mặc khải của Đức Giêsu, lý trí nhân loại có thể suy luận đạt đến một đấng sáng tạo ra vũ trũ vạn vật, nhưng đấng đó là gì, công việc sinh hoạt ra sao thì con người hoàn toàn vô minh.  Tất cả phải nhờ Trung gian duy nhất là Đức Giêsu.

Đức Giêsu là nhân vật trung tâm của lịch sử Do thái được các tiên tri loan báo dưới nhiều danh hiệu có sứ mệnh khác nhau: đấng cứu tinh dân tộc, nhà giải phóng, người chăn chiên tốt lành, vị ngôn sứ cao cả, hoàng tử hòa bình … Tuy nhiên Người có gốc gác là dân Do thái, sinh ra từ chi họ Giuđa, thuộc dòng tộc vua Đavít.  Điều gây vấp phạm cho đức tin Kitô giáo, đó là Thiên Chúa xuống thế làm người, đến ở giữa chúng ta qua con đường trần gian. 

Đức Giêsu thật sự là mầu nhiệm khó hiểu, vì bản thân của Người mang hai bản thể, bản thể Thiên Chúa và bản thể nhân loại.  Người không phải là nhân vật thần thoại gồm một nửa là ‘thần’, nửa kia là ‘nhân’ mà trong các huyền thoại giả tưởng nói đến như con vật “đầu người mình sư tử” hay “đầu người mình ngựa”.  Đức Giêsu trọn vẹn là Thiên Chúa và trọn vẹn là con người.  Đó là điều khó chấp nhận đối với nhân loại đương thời cũng như đối với cả chúng ta hôm nay, bởi vì không có hữu thể nào trên trần gian nầy mang hai bản thể cả.  Nhân loại không có kinh nghiệm về điều nầy.  Đây là biến cố độc nhất vô nhị xảy ra nơi trần gian.  Cái khó khăn nằm ở chỗ đó, một hữu thể mang hai bản thể khác nhau.

Việc Đức Giêsu hiển linh được thể hiện nhiều lần chứ không phải chỉ một lần mà thôi, điển hình hôm nay hiển linh được thực hiện trong ba sự kiện: trong tiệc cưới Cana, trong lời giới thiệu của Chúa Cha khi Đức Giêsu vừa nhận phép rửa tại sông Giođan, và trong việc “Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa” (Lời nguyện nhập lễ Hiển Linh).  Nghĩa là chính Thiên Chúa bày tỏ mình ra cho dân ngoại, điều đó cho hiểu rằng ơn cứu chuộc không dành cho riêng ai, chính Thiên Chúa đi bước trước mở lối cho con người tìm về với Thiên Chúa, để tất cả những ai chấp nhận Đức Giêsu là Chúa đều được ở : “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Bài đọc 2. Ep 3, 6).

Thiên Chúa mời gọi con người đến gặp Người ở mọi thời, bằng những ‘hiển linh’ khác nhau, tuy nhiên muốn gặp Người trước hết cần phải lên đường, tức là từ bỏ sự yên thân, chấp nhận cuộc sống bị xáo trộn.  Đây là cách hành xử của các đạo sĩ Phương Đông đi tìm kiếm Thiên Chúa: Dựa vào lời Kinh thánh cùng với sự chỉ dẫn của bậc cao minh, nhìn trời theo dấu sao lạ, họ đã lên đường truy tìm ấu Chúa để bái lạy “Đức Vua Do thái”.   Con người có khả năng tìm gặp Thiên Chúa nhờ dựa vào Kinh thánh – lời người có kinh nghiệm dẫn dắt – đọc dấu thời đại – và nổ lực tìm kiếm của cá nhân,

Từ chân trời góc biển các đạo sĩ vất vả lên đường tìm đến hang Bêlem, đối lại, người ở thành Giêrusalem như Hêrôđê lại bối rối âm mưu đen tối tính kế thanh toán ấu Chúa mới chào đời.  Khi tới hang Bêlem, các đạo sĩ đã phủ phục thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi hang lừa máng cỏ, rồi dâng lên Người vàng, nhủ hương và mộc dược những lễ phẩm quý giá của Phương Đông (x. Mt 2, 10.11) để tỏ lòng kính trọng, thần phục suy tôn; ngược lại vua Hêrôđê cũng tìm kiếm ấu Chúa nhưng với ý đồ sát hại chứ không phải để thờ lạy. 

Kinh thánh vẫn còn đó, ánh sao lạ vẫn chưa tắt nơi tâm hồn mỗi người chúng ta, khi chúng ta lắng nghe sự thật, cố sống theo lương tâm ngay thẳng, chính lúc đó chúng ta đã lên đường tìm về sự thật và đến gần với Chân Lý.  Ánh sáng sao lạ đó không bao giờ thiếu cho từng người trong chúng ta, có điều là chúng ta đủ can đảm hay không trở thành đạo sĩ truy tìm chân lý hay bóp nghẹt sự thật như Hêrôđê.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, con cảm tạ Chúa đã hành trình xuống trần gian bằng con đường máng cỏ để tỏ cho con biết đường về trời, xin cho con biết yêu mến sự thật và có can đảm trở nên ánh sao lạ dẫn đường người khác về với Chúa. Amen

——————-

Suy niệm 2:                     Linh mục Luy Nguyễn Quang Vinh

Chúa Hiển Linh

Được sao lạ dẫn đường, mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến thờ lạy Hài nhi Giêsu.  Đó là công thức cổ truyền trong Tin Mừng nói về lễ Hiển Linh (x. Bài Tin Mừng. Mt 2, 1-12).  Thật ra khó để nắm bắt tình huống lịch sử về trình thuật Ba Vua đến thờ lạy Chúa, bởi lẽ chúng ta không diện kiến với một bài tường thuật tại chỗ do một phóng viên ghi lại chi tiết, nhưng chúng ta đứng trước niềm tin của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi.  Nhưng không phải vì vậy mà ngày lễ Chúa Hiển linh không mang lại lợi ích thiêng liêng quan trọng.  Phải vượt qua trình thuật về giai thoại lễ Ba Vua để đạt đến trình thuật đức tin mà tác giả muốn trình bày đó là sự bộc lộ mình ra cho dân ngoại, hiển linh có nghĩa Chúa tỏ mình.

Hiển linh là một mầu nhiệm, không phải là điều gì đó âm u khó hiểu, nhưng Hiển linh tích lũy phong phú ý nghĩa, sự sống và ánh sáng mà người ta không thể nào gói ghém hết nội dung trong một hạn từ, hay một định nghĩa được.  Hiển linh thuộc trật tự sống động bao hàm cả chúng ta nữa.  Trình thuật tin mừng Mátthêu chiếu ánh sáng vào niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta cũng như chiếu ánh sáng vào Giáo Hội và thế giới. 

Khi so sánh lễ Hiện xuống với lễ Phục sinh, người ta thường nói lễ Hiện xuống ném lửa vào trần gian và làm bùng cháy lên.  Thì Hiển linh cũng được hiểu như thế, lễ Hiển linh chứ không phải lễ Giáng Sinh làm bùng lên ánh sáng cứu chuộc cho khắp muôn dân, thuộc mọi ngôn ngữ, mọi thời đại, mọi văn hoá.  Hiển linh mang tính cứu độ hoàn vũ cho hết mọi người.  Nếu Chúa Giáng sinh mà không hiển linh cho dân ngoại thì nào có được lợi gì cho dân ngoại, vì con người nào có biết Thiên Chúa đâu mà thờ lạy.  Thiên Chúa sinh hạ làm người chưa đủ để làm cho con người nhận biết ThiênChúa, Người còn bộc lộ mình ra, nói về chính gốc tích mình và căn cước của mình nữa.

Các nhà Chiêm tinh, trước đây được gọi là Ba Vua, thật sự họ là những nhà Tiên tri vì:  Thứ nhất là vì họ đặt mình dưới sự hướng dẫn của Ngôi sao lạ, mà không cậy dựa vào sức mạnh của quyền lực, của tri thức thiên văn, của giàu sang để đi tìm kiếm Thiên Chúa, điều nầy cho chúng ta thấy rằng sự hiểu biết Thiên Chúa thuộc về một trật tự khác, không phải là trật tự theo suy luận, hay theo khoa học trần thế. 

Thứ hai, họ dâng cho Hoàng Tử Hoà Bình những sản phẩm quê hương mình theo phong tục và tập quán, chẳng phải họ đã làm tiên tri cho cả thế giới cách thức tôn thờ Thiên Chúa  theo phong tục và tập quán của địa phương mình đó sao?  Dâng hương để nhận Người là Chúa, dâng vàng để nhận Người là vua, và dâng mộc dược để loan báo Người sẽ chết.  Vàng tượng trưng uy quyền bậc quân vương, nhũ hương nói lên chức vụ thượng tế, và mộc dược báo trước ngày Chúa chịu mai táng trong mồ.  Những cách thức tôn thờ đó ngày nay chúng ta gọi là hội nhập văn hoá, có cùng một tâm tình thờ lạy nhưng được diễn tả nhiều phương thức khác nhau theo mỗi phong tục tập quán. 

Thứ đến, Ba Vua là dân ngoại, đến với Đức Giêsu bằng con đường chiêm tinh và tôn giáo của họ, làm cho chúng ta phải trân trọng ánh sáng chân lý trong các tôn giáo bạn.  Tuy nhiên phải xác tín rằng mặc khải trọn vẹn chỉ có nơi Đức Giêsu Ki-tô, Người là chân lý trọn vẹn mà Thiên Chúa mặc khải cho nhân loại.  Tất cả mặc khải Cựu ước và Tân ước, các lời sấm của các tiên tri được thể hiện nơi Đức Kitô, là Ngôi Lời của Thiên Chúa.

Suy luận theo tư tưởng của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI, có bao nhiêu con người là có bấy nhiêu con đường dẫn đến Thiên Chúa, tuy nhiên con đường của Thiên Chúa thì rộng rãi và bao quát mọi con đường của con người, cho nên mọi con đường nhân loại đều nằm trong con đường của Thiên Chúa (Đức Bênêđictô 16).  Và thật phù hợp với lời sấm của Isaia: “ Trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.  Chư dân sẽ đi về ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.… Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi” (Bài đọc 1.  Is 60,1-6); và như lời Thư Êphêxô: “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ” (Bài đọc 2. Ep 3,2-3a.5-6). 

Hiển linh, Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, trong đó có chúng ta nữa.  Tuy nhiên phải hiểu rằng, hiển linh không phải chỉ một lần, mà tất cả lời Đức Giêsu nói và việc Đức Giêsu làm đều bộc lộ thần tính của Thiên Chúa vì mọi sinh hoạt của Đức Giêsu chính là sự bộc lộ hoạt động của Thiên Chúa ra bên ngoài.  Giáo hội cô đọng biến cố hiển linh qua sự kiện Ngôi sao lạ chỉ đường cho ba Chiêm tinh gia, qua phép lạ nước hóa thành rượu ngon tại tiệc cưới Cana, qua việc hiển dung trên núi cho ba môn đệ.  Những biến cố nầy là tiêu biểu cho lễ Hiển Linh.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, con xin tạ ơn Chúa vì đã mặc khải mầu nhiệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Người thật sự là Thiên Chúa không thiên vị, xin cho Tin Mừng lan truyền đến  anh chị em chưa nhận biết Thiên Chúa.

——————-

Suy niệm 3:                         Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An

Lối Về Hân Hoan

Cách đây hơn hai ngàn năm, Thiên Chúa đã tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2). Các nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế, nhờ nhìn thấy ngôi sao. Ngày xưa người ta tin rằng: khi một ngôi sao lạ xuất hiện là có một đấng vị vọng ra đời. Vua Alexandre của Hy lạp hay vua Caesar của Rôma sinh ra, ngườt ta cũng nói có sao lạ xuất hiện. Người Hy lạp gọi những người nổi tiếng là sao. Ngày nay cũng vậy, các tài tử nổi tiếng gọi là “minh tinh màn bạc”, các cầu thủ giỏi gọi là “siêu sao”. Trong nghề bói toán, người ta cũng xem “sao chiếu mệnh” để biết vận mạng con người. Người Do thái cũng vậy, nên sách Dân Số có lời sấm của Bilơam: “Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Itraen” (Ds 24,17).

Các nhà chiêm tinh theo ánh sao lên đường. Ngôi sao lạ không đưa họ tới Belem mà đưa tới Giêrusalem.

Giêrusalem được coi là thành thánh, bởi ở đó xưa kia tổ phụ Abraham đã đem con trai Isaác để sát tế cho Thiên Chúa. Chính nơi đây, vua Salomon đã xây dựng đền thờ nguy nga bằng gỗ quý từ Libăng đem về. Vào thời vua Hêrôđê, ngôi đền thờ ấy đã được xây dựng lại, một công trình vĩ đại, phải mất 46 năm mới hoàn tất. Vì là thành thánh và là nơi có đền thờ, nên không lạ gì khi các nhà chiêm tinh đi tìm vua dân Do thái mới sinh lại không dừng chân nơi này.

Tới Giêrusalem, họ hỏi vua Hêrôđê: “Đức vua dân Do thái mới sinh hiện ở đâu?”. Ba nhà chiêm tinh đã đem đến một tin làm chấn động cả dân thành, khiến từ vua chúa quan quyền cho đến bậc thứ dân đều sửng sốt hoang mang. Nhà vua liền triệu tập các học giả vốn được coi là những người đoán biết được mệnh trời.Vua hỏi các thượng tế và kinh sư. Họ trả lời : “Tại Bêlem, miền Giuđê”.  Nhưng thật đáng ngạc nhiên, nhà vua cùng các bậc học giả uyên thâm đó, chẳng một ai nghĩ là chính mình cần phải đi tìm vị tân vương. Họ chỉ hướng cho ba nhà chiêm tinh đi Bêlem.

Các nhà chiêm tinh Đông phương lại nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường theo ánh sao. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.

Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia. Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Ðó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm.

Họ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.

Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh. Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.

Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.

Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong Nước Trời” (Mt 8,11). Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.

Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.

Hôm nay, không có ngôi sao Đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi : “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Gioan giải thích : “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy.

Thời nay, Mẹ thánh Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao lao là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Chúa muốn chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh: “Các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Kitô hữu trở nên ánh sao tình yêu, ánh sao tha thứ, ánh sao hy vọng, ánh sao công bình, ánh sao bác ái, ánh sao đạo đức, góp phần dẫn đường cho người khác đến với Chúa. Ngôi sao Đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi rồi tiến dâng lễ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng ta sáng lên niềm tin. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc,11,28), Chúa Giêsu chỉ cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thế mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành. (x.Verbum Domini, số 124).

Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng ghi nhận, các nhà chiêm tinh trở về bằng một lối đi hân hoan: “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình”. Khi đã được gặp gỡ Thiên Chúa, con người phải có một quyết định thay đổi đời sống. Họ không thể sống theo con đường cũ, mà phải đi một con đường khác: con đường của niềm tin, con đường của ánh sáng. Một khi đã gặp được Thiên Chúa, con người sẽ được biến đổi. Khi đã có Chúa, các nhà chiêm tinh không đi theo con đường tăm tối trước đây nữa, nhưng đi theo một lối đi mới. Con đường này sẽ đưa các ông bước vào một hành trình mới đó là hành trình sống và loan báo cho mọi người về những gì các ông đã thấy, về đức tin các ông đã lãnh nhận, về niềm vui và hy vọng mà các ông đang được hưởng.

Khi gặp được Chúa rồi, các nhà chiêm tinh đã được biến đổi trong đời sống nên các ông lên đường trở về theo lối khác. Cuộc gặp gỡ Hài Nhi, gặp gỡ Thiên Chúa đã đem lại cho các ông một cuộc đời mới. Đời họ đã chuyển sang một hướng khác. Họ không đi về hướng cũ có sự truy lùng của Hêrôđê. Họ đã không về với con đường đầy hận thù, chia rẽ, quyền lực, danh vọng…Nhưng họ đi về với một con đường khác.Con đường có sự hiện diện của Thiên Chúa, con đường của niềm vui và bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Một lối về hân hoan.

Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh kinh, qua Giáo hội, qua các Bí tích, qua cuộc sống hàng ngày. Ðể gặp Ngài, chúng ta cần có Lời Chúa soi dẫn và Đức Tin nâng đỡ. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn đường cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa để đi vào đường lối Tin Mừng.

——————

Suy niệm 4:              Linh mục Giuse Nguyễn Hữu Triết

 “Chúng tôi đã thấy Ngôi Sao của Người
ở phương đông và chúng tôi đến triều bái Người…” 
(Mt 2, 1- 12)

   1/ Chúa luôn tìm cách Tỏ Mình Ra Cho Muôn Dân.

– Dấu hiệu nào? – Ngôi sao lạ dẫn đường cho các Đạo Sỹ tìm đến Belem thờ lạy Chúa.

   2/ Ngày nay còn Sao Lạ không? – Thưa còn và rất nhiều, cần phải khám phá ra:

– Sao Bắc ĐẩuTin Mừng, là Lời Chúa: “Lời Chúa là Sao Mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh chị em” (2Pr 1, 19).

   “Lời Chúa là Đèn soi cho con bước, là Ánh Sáng chỉ đường con đi” (Tv 118, 105).

   Lời Chúa cũng chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa. Chúa Giêsu là “Mặt trời Công Chính viếng thăm ta” (Lc 1, 78). Chính Chúa phán: “Tôi là Ánh Sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong tối tăm nhưng có Ánh Sáng dẫn tới Sự Sống đời đời” (Ga 12, 8).

– Những ngôi Sao nhỏ là gương sáng của những kẻ Sống Lời Chúa: cha mẹ, thầy dạy, bạn bè… Ai sống Lời Chúa cũng có Ánh Sáng. Ông Môsê đàm đạo với Chúa, vác 2 bia Lời Chúa xuống với dân, mặt ông sáng chói dến nỗi dân không dám nhìn thẳng vào, Ông đã phải lấy Mạng che mặt mỗi khi nói với dân (Xh 35, 29- 34).

– Cha mẹ, Ông Bà, Thầy Cô, các bề trên trong đạo, ngoài đời, anh chị em, bạn bè… dạy dỗ, bảo ban, hướng dẫn những gì hợp lẽ phải, hợp đạo lý… thì đều là những Vì Sao dẫn đường cho ta, ta phải bước theo.

– Chính bản thân chúng ta cũng phải trở thành những Vì Sao Sáng cho mọi người xung quanh như lời Thánh Phaolô: “Giữa thế hệ gian tà này, anh chị em hãy chiếu sáng như những Vì Sao trên vòm trời” (Pl 2, 15).

            Khoảng 1970 một bộ phim ngắn được chiếu tại Sài Gòn nội dung như sau: Bọn cướp biển tấn công nhân viên trực hải đăng để tắt ngọn hải đăng cho tầu qua lại mắc cạn hoặc va vào đá ngầm để chúng cướp… 2 nhân viên coi hải đăng đã không đầu hàng và với mưu mẹo khôn ngoan đã lừa được bọn cướp đông hơn và tiêu diệt chúng, giữ được ngọn đèn sáng cho tầu bè đi lại an toàn.    

WGPKT(31/12/2021) KONTUM