Vị Tử Đạo Người Bélieu Étienne-Théodore Cuénot Thể, Giám Mục Thừa Sai 1802-1861 (4)

 

VỊ TỬ ĐẠO NGƯỜI BÉLIEU ÉTIENNE – THÉODORE CUÉNOT

GIÁM MỤC THỪA SAI

1802 -1861

JEAN THIÉBAUD

1988

 

“Vị Tử Đạo người Bélieu Étienne – Théodore CUENOT Giám Mục Thừa Sai 1802 -1861” (1)

“Vị Tử Đạo người Bélieu Étienne – Théodore CUENOT Giám Mục Thừa Sai 1802 -1861” (2)

“Vị Tử Đạo người Bélieu Étienne – Théodore CUENOT Giám Mục Thừa Sai 1802 -1861” (3)

 

(tiếp theo 3)

 

ĐÀN CHIÊN BỊ TAN NÁT

 

Ngày 6.1.1833, được ban hành sắc dụ cấm đạo toàn quốc, và được trình bày như một sự đồng ý trước yêu cầu của Bộ Lễ, chống lại đạo cong giáo. Thêm vào đó “các đạo trưởng đã chia cắt vương quốc và thành lập bấy nhiêu chính phủ theo ý họ (các giáo phận). Các Kyto hữu kính nể họ đến độ chỉ cần họ há miệng là chúng tuân theo ngay và trong một nháy mắt, các tin tức trong nước được loan đi từ Bắc chí Nam.khong thể chịu đựng được nữa những con người mọi rợ đó, đến để rao giảng, và sẽ thẳng tay trừng trị những ai chứa chấp họ. Còn phải cấm các sách viết bằng chữ mọi rợ nữa, chúng sẽ phải bị xé đốt. Cũng sẽ cấm việc đọc kinh, dù là đọc thầm trong các gia đình. Cũng phải tóm hết các thầy giảng và các gia trưởng và bắt họ phải đạp Thập Giá..(Hệ thống chữ viết theo tự mẫu La-tinh làm cho mọi người dễ dàng tiếp xúc sách báo, lại đặc biệt chạm tính tự ái của các Nhà Nho, vì họ muốn giữ độc quyền về giáo dục).

Sắc dụ của Minh Mạng giọng điệu long trọng:

“Ta Minh Mạng, sau đây là lệnh của Ta.Đã từ lâu nhiều người Âu Châu, đến giảng đạo Da-tô, lừa dối dân đen, kích thích, quyến rũ những người yếu kém không biết gì, dạy chúng có một Thiên Đàng Hỏa Ngục, chúng không thờ Phật, không thờ ông bà, thật là vô đạo, hơn nữa chúng dựng những nhà thờ, trong đó trai gái ra vào lẫn lộn, mục đích là quyến rũ phụ nữ đàn bà, chúng còn múc mắt những người đau ốm. Thật là một điều trái với luân thường đạo nghĩa.

Vì vậy ta truyền cho tất cả những người đi đạo từ quan đến dân..hãy thật lòng bỏ đạo. Các hàng quan lại phải xét xem các giáo dân ở hạt mình có vâng theo thượng lệnh không? Và họ phải đứng trước mặt mà dẫm chân lên Thập Giá. Còn các nhà thờ và các nhà ở của giáo sĩ thì phải triệt để phá đi hết. Sau này còn có người phạm tội theo đạo ấy thì trừng phạt rất nghiêm để cho triệt gốc tà đạo”[1].

Một sắc lệnh khác bổ sung chỉ được gửi đến các quan lớn, liên quan đến các vị thừa sai:

“Ta ra lệnh cho các quan lại ở các tỉnh và những người cai trị dân bắt giữ các đạo trưởng Tây dương, không chậm trễ giữ họ về Kinh thành để dịch sách. Còn các đạo trưởng bản xứ, phải kìm chân họ ở lại các thủ phủ, cho canh gác gắt gao kẻo chúng chuồn mất hoặc bắt liên lạc với dân chúng..Hãy hành động cẩn thận, đừng gây rối loạn. Ta cấm không được phổ biến chỉ dụ này”[2].

Con chiên bổn đạo hoang mang lo sợ: cho đến nay có thể tránh né các lệnh cấm bằng vài thỏi bạc đem nạp cho các quan lại. Nay họ phải chạy trốn trên sông hoặc trong các rừng rậm: 300 nhà thờ bị phá hủy, 18 dòng tu bị giải tán, các chủng viện tàn phá. Không thể nào kể xiết con số những nạn nhân trong 2 năm 1833 và 1834. Một thống đốc bày ra một chiếc gong dài như một cái thang có thể gông một lúc 7-8 cái đầu: chỉ cần một người cựa quậy là làm khổ cho mấy người kia.

Các thừa sai đã nhận được văn bản nhờ Cha Gagelin[3] mà một quan biết ơn, đã chuyển cho Ngài. Trước khi tiếp tục lần theo vết chân Lm Cuenot, chúng ta hãy tỏ lòng biết ơn với hai vị tử đạo khác. Lm Gagelin trốn lên rừng ở miền trung Nam Kỳ – bị kẻ cướp trấn lột và để tránh cho bổn đạo, rời bỏ hàng ngũ, Ngài đến trình diện với ông quan địa phương. (có lẽ trong hy vọng một cuộc dàn xếp). Khốn khổ cho Ngài. Ngài bị thắt cổ chết gần Huế ngày 17.10.1833 vì “tội đã giảng dạy và phổ biến đạo của Đức Giêsu”.

Còn Lm Marchand[4], bị quân phiến loạn của Lê-Văn-Khôi bắt cóc và buộc phải theo họ về đồn Sai-Gòn. Bị kết án là một trong những người lãnh đạo của quân phiến loạn, Ngài đã chịu cực hình ác độc và kéo dài: bị lăng trì, lột da sống và xẻo một trăm mảnh thịt, Ngài đã tắt thở trước khi bọn lý hình đã làm xong việc: đó là ngày 30.11.1835

Còn ở Nam Kỳ, chủ chăn cũng như con chiên đã có một lối thoát khác: “Vượt biển” và chờ đợi những ngày đẹp trời hơn. Giám Mục Taberd bị quản thúc ở Lái Thiêu với chỉ thị về Huế “Làm công việc dịch thuật” Giám Mục lợi dụng những ngày lễ hội nhân dịp Tết (20-2-1833), đánh lạc những người canh gác mình với vài lạng bạc và trốn sang Xiêm. Sau bao nhiêu là tai biến hiểm họa Ngài đến cảng Chantabun ngày 21.3.1833.

Lm Cuenot cũng theo chân Ngài với đám chủng sinh. Việc tiến quân của triều đình và việc giết hại tín hữu cũng đủ cho thấy mối nguy: với bất cứ giá nào phải đưa họ đến chủng viện Pinang. Chính tương lai của các em chủng sinh này ám ảnh Ngài ngày đêm như sau này Ngài nói:

“Thà tôi chết, sớm muộn gì người ta có thể thay thế tôi, trong vòng một năm, còn nếu một linh mục bản xứ hay một chủng sinh này thiệt mạng, thì đối với công cuộc truyền giáo sẽ phải mất 20 đến 30 năm để thay thế họ.”

Nhưng nước Xiêm chưa phải là bến bình yên. Chiến tranh đã bùng nổ giữa hai nước. Dân Xiêm tràn xuống Nam Kỳ, bằng đường bộ và đường biển. Họ hôi được bao nhiêu là chiến lợi phẩm và bắt hàng nghìn tù binh trong số đó có 4.000 Kytô hữu bị họ đưa về, phỉnh họ rằng đó là theo lệnh của Giám Mục của họ. Cuộc chiến này đầy xảo quyệt đã giết hại nhiều người và làm cho Giám Mục Taberd trở nên trò đùa bỉ ổi đối với cả hai dân tộc. Ba linh mục và khoảng 15 chủng sinh bị bắt làm tù binh.

1833-1834: hai năm nặng nề đối với Lm Cuenot. Hai cụm từ cũng đủ để mô tả tất cả:

– “Ngài mòn mỏi vì buồn phiền” và

– “Ngài cầu nguyện nhiều”

Một bức thư gửi cho cha mẹ từ Chantabun và đề ngày 10.9.1833 thì không hề để lộ những nỗi âu lo của Ngài. Ngài vẫn bình thản và đẩy những “tư tưởng về vĩnh cửu”.

“Từ ngày con ở trong những đất nước này, con nhận được chỉ có một bức thư của Bố Mẹ. Con rời khỏi Nam Kỳ đã 6 tháng nay. Minh Mạng truy lùng các Thừa sai để bỏ tù rồi gửi về lại bên Âu Châu. Ông đã bắt được vài người nhưng chúng con không có tin chính xác. Đức Giám Mục, một Thừa Sai khác và con, chúng con đã tẩu thoát sang một nước láng giềng, nước Xiêm.

Năm ngoái con bị bệnh nặng.. ..nhưng Thiên Chúa đã để con lại trên đời này ít lâu nữa để chịu đau khổ mà đền tội. Như vậy là từ khi ở đất truyền giáo đã bốn lần con chuẩn bị chết và bốn lần con đã chết hụt. Con Bố Mẹ thì sao, chắc Bố Mẹ đã già. Con có thể đoán được khi thấy tóc con bắt đầu trắng.. .Thế nên chúng ta hãy chuẩn bị chết lành. Đó là điều chính yếu (…)” “Dù ở xa, con vẫn nghe được những điều bất hạnh nước Pháp đang trải qua. Ước gì Thiên Chúa thương hại và ban cho nước Pháp hòa bình. Vĩnh biệt: Bố Mẹ thân yêu. Hẹn gặp lại nhau trên Trời. Con cầu nguyện hết lòng mỗi ngày cho Bố Mẹ, bà con cô bác cùng ân nhân tất cả.”

Nếu Nước Trời đang hé mở đới với Lm Cuenot, thì ở dưới đất, tất cả đều tắc nghẽn: bị trục xuất từ thành phố này sang thành phố khác, mục đích là để gây phiền nhiễu, cấm không được cư ngụ ở phần Cam-bôt đang thuộc chủ quyền của nước Xiêm. Cấm không được ban các phép bí tích cho người an-nam đang bị kẹt ở Chantabun.. .Họ quả là những con tin của vủa Xiêm rồi.

“Lúc đó, Lm Cuenot nói, tôi quyết định tẩu thoát. Giám Mục nước Xiêm cũng không chống đối nhưng nỗi lo sợ hậu quả. Ngài khổng thể giúp tôi được. Sau khi thu xếp công việc xong, khi Lm Régéreau đến, tôi nghĩ: chúng tôi sẽ ra đi bằng xuồng nhỏ đến với một chiếc tàu biển đậu ngoài khơi và sau đó “nhân danh Thiên Chúa” chúng tôi sẽ rời khỏi một đất nước nơi mà sự hiện diện của mình không những vô ích mà còn tai hại cho công cuộc truyền giáo mà Thiên Chúa đã mời gọi mình chu toàn”.

Cuộc mạo hiểm này đã thành công. Chúng ta có thể đoán được mọi hiểm nguy qua tiểu dẫn sau đây mà một trong những cộng sự viên của Gm Cuenot sẽ viết sau khi Ngài qua đời:

“Lm Cuenot đã phải vận dụng tất cả sự thận trọng của mình như thế nào để chuẩn bị và chu toàn cuộc tẩu thoát của tập thể nhỏ bé của mình. Cuộc tẩu thoát ấy diễn ra bằng đường biển, không người lái, không địa bàn, và độc chỉ trên một chiếc thuyền đánh cá, thuyền ấy đã đến được Xinhgapo sau bao nhiêu hiểm nguy.”

Ngày mồng 9.31835, sau một cuộc vượt biển 30 ngày, Ngài đã đến Xinh-ga-po. Cùng với Lm Cuenot, có 2 linh mục bản xứ, vài chủng sinh, 2 thầy giảng và bổn đạo khác, tổng cộng là 17 miệng ăn, nhiều người ăn mặc rách rưới, và cần phải đưa các chủng sinh đến Pinang, thế mà trong ví không còn một xu.Ngài đã toan ghé vào Nam Kỳ nhưng người chung quanh Ngài quá nhát gan[5].

Cũng trong bức thư đó, Lm Cuenot bảo vệ các tín hữu Đồng Nai bị kết án là đã tiếp tay trong cuộc nổi loạn:

“Giữa chúng tôi đây có 2 thầy giảng và hai tín hữu đã từng chứng kiến hết mọi sự, họ đã chỉ rời khỏi Sài-Gòn sau khi quân đội triều đình đã đóng chiếm từ nhiều tháng và họ đều đồng thanh về những điểm sau đây: không một tín hữu nào đã biết đến dự án của quân phiến loạn trước khi dự án ấy được đưa rat thi hành, tướng quân phiến loạn đã phỉnh họ một cách nham hiểm rằng y không dùng họ để chống lại hoàng đế mà chỉ để canh giữ thành. Chỉ dựa trên lời hứa đó mà một vài người đã nhận một vài công việc, hơn nữa họ còn bị dọa chết, theo tập quán, nếu họ từ chối tuân phục quyền bính hiện hành và được toàn thể xứ Nam Kỳ nhìn nhận.”

Vinh dự đó của những người Kytô hữu xứ Nam Kỳ là chính vinh dự của Ngài: không chậm trễ Ngài sẽ về lại với họ.

 

MỘT GIÁM MỤC “CHUI”

 

Từ nơi ẩn cư bên nước Xiêm, ngay từ năm 1834 Giám Mục Taberd đã hiểu rằng bản thân mình không còn có thể trở về Nam Kỳ nữa, bị nghi ngờ là đã nhúng tay vào thảm họa của các Kitô hữu. Giao cho ai bây giờ đàn chiên này? Lm Gagelin đã chết, còn một linh mục kỳ cựu khác là linh mục Jaccard chẳng thấy tăm hơi gì cả. Lm Cuenot đã chứng minh khả năng của minh, dù là trong việc truyền giáo, dù trong sự xung đột của nội chiến và của cuộc bách hại.

Từ Xinh-ga-po Giám Mục Taberd viết cho các vị Giám Đốc ở Paris ngày 15.7.1834:

“Rất có thể là tôi chọn Lm Cuenot làm Giám Mục phụ tá với quyền kế vị. Nhưng như các cha biết tôi không có gì để biếu Ngài cả, không mũ, không gậy, một cuốn nghi thức tấn phong Giám Mục cũng không….Xin gửi cho tôi những gì có thể gửi, hãy bố thí cho vật dụng đó.”

Kế đến vào ngày 16.5.1835 Ngài loan báo nhân vì khả năng được Tòa Thánh ban cho Ngài. Ngài đã đi Xinh-ga-po ngày 3-5 đã phong Giám Mục phụ tá với quyền kế vị cho Lm Cuenot, với danh hiệu là Giám Mục thành Metellopolis[6]. Tân Giám Mục đã tự ý xin về Nam Kỳ nơi mà máu lửa của cuộc bách hại đang lắng xuống.

Giám Mục Cuenot đã phải là giám mục phó cho đến khi Đức Giám Mục Taberd qua đời năm 1840. Nhưng Ngài vẫn luôn ký tên: “Étienne Théodore” hoặc “Thể” tên An-nam của Ngài.

Tân Giám Mục hoàn toàn ý thức về gánh nặng mà Ngài phải mang. Ngài viết cho Lm Charles Cuenot, “vị ân nhân thân yêu”:

“Con vừa mới để cho người ta phong con làm Giám Mục phụ tá với quyền kế vị. Ôi thật điên rồ!. Sao? một con người, chỉ sít sao mang nặng được thân phận của mình lại chấp nhận bị đè bẹp bởi gánh nặng của người khác. Hãy cầu nguyện, con van cha, để tai họa đó không xảy đến, nhưng để trái lại, con tự cứu lấy mình bằng cách hướng dẫn người khác trên con đường cứu độ.”

Ngay từ ngày 14 tháng 5, Đức Giám Mục Cuenot rời khỏi Xinh-ga-po trên chiếc tàu đi buôn xuất phát từ Bordeaux, chiếc “Tayac”, không một chiếc tàu nào khác đã chấp nhận lãnh món hàng quốc cấm ấy là các linh mục. Trên tàu, Ngài đóng giả một bác sĩ người Anh.

“Ngày 28.5, chúng tôi xích đến gần bờ Phú Yên và khi trời tối, năm anh bạn xuống một chiếc thuyền độc mộc được chuẩn bị sẵn. Rất may là họ cũng đã đến nơi. Ngày 30.5 vào khoảng chiều chúng tôi cập bến Tourane. Cuối cùng bổn đạo cũng nhắn được rằng họ đang chờ tôi với mấy chiếc ghe gần cảng. Tạ ơn Chúa!”

Thế đó, Đức Cha Cuenot cập bến nơi mà vào năm 1614, một nhóm người Nhật bị bắt đạo đã đến tá túc và đã là cái nhân của cộng đồng người Việt chung quanh Lm Đắc Lộ. Thuyền trưởng Japer, của chiếc Tayac, đã có thể báo cho Hội Thừa Sai, tin vui đó:

“Đức Giám Mục Metellopolis đã đặc biệt yêu cầu tôi chuyển lời lại với các vị rằng Ngài coi ngày đó như là ngày đẹp nhất đời mình.

Suốt hai năm 1836-1837, các tín hữu Nam Kỳ hưởng một thời kỳ tương đối bình yên, Minh Mạng lúc này phải đối phó với nhiều vấn đề: loạn lạc ở Bắc Kỳ và ở Lào, nạn đói, ôn dịch và phá phách từ phía nước Xiêm, vv…

Hòa bình khá ư là tương đối: các chỉ dụ liên tiếp được ban hành. Từ mùa hè 1835 đến hè 1836, Giám mục đã phải dời chỗ ở ba lần. Ngài trao phó cho lời cầu nguyện của bà cô yêu quý Jeanne-Baptiste những Kytô hữu bị đày: “Ông Vua đã ban cho con vinh dự được đứng đầu một chỉ dụ bài trừ.”

Trong những tình huống như thế, nên ưu tiên lựa chọn điều gì? Trước hết phải nâng đỡ tinh thần cho bổn đạo, cho các thầy giảng và vài vị linh mục bản xứ lớn tuổi..Họ coi như đức tin bị tiêu diệt từ ngày vắng mặt vị đại diện Tông Tòa. Đây là một nhiệm vụ khó khăn vì Giám mục không thể công khai gặp mặt con chiên của mình được: bị giam hãm trong một góc nhà của một thầy giảng, Ngài sống ở đó, hoàn toàn kín ẩn bí mật, phải đề cao canh giác một bên sự tò mò của người này, bên kia sự theo dõi của kẻ nọ.

Vì không thể lên tiếng được, Ngài viết lách: các bức thư của Ngài được các thầy giảng đọc cho bổn đạo nghe trong những buổi họp ban đêm, rồi khi có một linh mục ghé qua, chúng sẽ được bình luận. Chẳng mấy chốc, tín hữu biết rằng, họ không bị bỏ rơi nhưng họ đã có một mục tử và có thể dựa cậy vào sự ân cần chăm sóc cùng lòng can đảm của Ngài.

Năm 1836 Đức Giám Mục Cuenot phong chức cho mười tân linh mục và nhiều hơn nữa các năm kế tiếp, rất nhanh hàng ngũ linh mục bản xứ lên tới 30 vị. Ba thừa sai mới đã đột nhập được vào Nam Kỳ, năm 1836. Hai chủng viện nhỏ được thiết lập, 18 nhà đã tập trung trở lại, 250 Dì Mến Thánh Giá bị giải thể, sau một thời gian tá túc trong gia đình.

Đồng thời, những quyền lực của ác xấu trở nên lộng hành hơn: những vị tử đạo mới, cái chết của các vị thừa sai trẻ tưổi.cuộc chiến chống Thập Giá không hề ngơi nghỉ.

Những năm đầu làm giám mục của Đức Cha Cuenot được vắn gọn mô tả trong bức thư sau đây viết vào ngày tháng 11 năm 1836, và nhận được tại Besanẹon ngày 24.5.1838:

“Đứa con hoang đàng tuyệt đối muốn làm hòa, nên lại thường trở về nài xin.. .Chúa Quan Phòng dẫn dắt con: con đã đột nhập vào Nam Kỳ không thể cách nào tốt đẹp hơn. Và bây giờ như vậy là đã mười sáu tháng con lưu lại trong một họ đạo nhỏ gần Cảng Tourane, mà không hề hấn gì. Cũng có những cuộc báo động, thậm chí dữ dội nữa là khác, nhưng không tai hại.”

(Kế đến Ngài thuật lại những biến cố quan trọng nhất từ ngày trở về Nam Kỳ, cái chết của một tín hữu 27 tuổi ở Huế, cuộc tử đạo của Cha Du, và những cấm dụ mới).

“Những cuộc khám soát tiếp theo sau những chỉ dụ trên được tiến hành trong nhiều tháng đã không đem lại kết quả nào, nên vua cũng đành phải thôi. Bổn đạo của chúng ta, vẫn gặp nhiều gian nan khốn khổ về phía những ông quan nhỏ và các tổng làng. Lòng tham hối thúc họ hơn là sự ghét bỏ đạo. Cách nào mà bổn đạo cũng còn có thể chuộc mạng bằng tiền.

Dù tình thế khó khăn như vậy, mà năm nay đã có hai vị thừa sai của chúng ta đột nhập được vào Nam Kỳ: đó chính là hai linh mục xuất thân từ Bayeux. Tổng cộng hiện nay, không kể Lm Jaccard đang ngồi tù, chúng tôi tất cả là 6 người Âu và 26 linh mục bản xứ. Giám Mục Tông Tòa của chúng tôi chưa trở về. Công việc nhà trường và công cuộc truyền giáo đang giữ chân Ngài lại ở Poulo-Pinang.

Số các bổn đạo là 70 đến 80 nghìn rải rác trên một địa bàn rộng lớn trong đất nước. Cam bốt cũng thuộc đơn vị truyền giáo. Xưa kia ở đó cũng có một số Kytô hữu nhưng hầu hết là người lai Bồ-Đào-Nha. Hiện nay thì không còn gì nữa. Hầu hết đã bị bắt, đưa sang Xiêm trong các cuộc chiến giữa hai nước, số nhỏ còn lại thì bị bỏ rơi, vì họ ở quá xa bổn đạo Nam Kỳ. Có lẽ các cha lấy làm lạ rằng Kytô giáo đã đột nhập khá lâu vào Nam Kỳ, thế mà chẳng tiến bộ bao nhiêu. Chính điều đó cũng gây ngạc nhiên cho tôi vì người miền Nam đâu có khăng khăng bám giữ những điều mê tín. Tuy vậy có thể gán cho nhiều lý do, trong đó lý do đầu tiên là sự thiếu thốn thợ Tin Mừng, khí hậu độc hại ẩm thấp giết chết nhiều vị, cũng ảnh hưởng đến, đồng thời chiến tranh thường xuyên bùng nổ, đã tàn phá vùng này, những cuộc bách hại, di dân, nạn đói kém, ôn dịch.kẻ thù của chủ ruộng đã thường xuyên gieo cỏ lùng trong ruộng của Thầy.

Con van xin cha; hãy cầu nguyện cho con và cho gia đình nhỏ bé khốn khổ này. Con càng cần đến lời nguyện của các cha hơn là vì con thấy bị đe dọa một mình gánh vác công cuộc truyền giáo ở đây. Vị thế của con đầy hiểm nguy và con biết điều đó làm cho các cha hốt hoảng. Dù những khốn khổ con đã gây cho các cha trong quá khứ và dù con không luôn mềm mỏng đáp lại sự ưu ái ân cần, con biết rằng các cha luôn quan tâm đến con.

Thế nên, thưa cha, con cậy dựa vào lời cầu nguyện và các thánh lễ. Xin cha yêu cầu những tâm hồn thánh thiện cầu nguyện và làm việc thiện để hỗ trợ con.

Con viết thư cho Đức Giám Mục. Không phải vì kiêu ngạo nhưng vì tôn trọng. Tỏ lòng kính trọng với Đức Cha sẽ làm cho Ngài dễ dãi chấp thuận cho các linh mục trong địa phận gia nhập Hội Thừa Sai. Đâu phải Giám Mục nào bên Pháp cũng có tấm lòng công giáo. Có một vài Giám Mục có xu hướng giữ lại hết cho địa phận của mình… Kính chào cha.”

_______________

[1] Trích thư Lm M.de la Motte gửi cho Giám Đốc Hội Thừa Sai, ngày 10.2.1833

[2] Trích thư của Lm Cuenot, ngày 9.5.1833

[3]   Lấy tên Việt Nam là Lm Kính

[4]   Lấy tên Việt Nam là Lm Du.

[5] Thư ngày 17.3.1835

[6] Từ thế kỷ 17, ở các nước truyền giáo, các Giám Mục đại diện Tông Tòa, được Roma ban cho một danh hiệu của một toàn giám mục nay không còn nữa. Metellopolis là một thành phố cổ ở Tiểu Á (Phrygia), một miền mà đã từng gửi 24 vị Giám Mục đến dự Công Đồng Nicée (325). Vào thế kỷ thứ 7, cuộc xâm lược của người A-Rập đã diệt trừ đức tin công giáo ở đó.

 

(còn tiếp)

GPKONTUM (05/11/2024) KONTUM