
Đức Giê-su được cất lên ngay trước mắt các ông.
Khởi đầu sách Công vụ Tông Đồ.
1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu 2 cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. 3 Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình : trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. 4 Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, 5 đó là : ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.”
6 Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng : “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không ?” 7 Người đáp : “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, 8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”
9 Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. 10 Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh 11 và nói : “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”
Đ.Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo,
Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và.
2Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi !
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo !3Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý,
là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.
Đ.Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo,
Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và.
6Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo,
Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và.7Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa,
đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta !
Đ.Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo,
Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và.
8Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu,
hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ.9Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân,
Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả.
Đ.Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo,
Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và.
Thiên Chúa đã đặt Đức Ki-tô ngự bên hữu Người trên trời.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-xô.
17 Thưa anh em, tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. 18 Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, 19 đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, 20 mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. 21 Như vậy, Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. 22 Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh ; 23 mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ha-lê-lui-a.
Đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.
Kết thúc Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
46 Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và nói : “Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại ; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.
49 “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
50 Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. 51 Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. 52 Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, 53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
(Nguồn: ktcgkpv.org)
—————————
Suy niệm 1: TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Đức tin Ki-tô giáo dạy chúng ta: khi sinh ra ở đời, là con người khởi đầu hành trình “về trời”. Đây là một hành trình dài, đầy gian nan và nghiệt ngã. Một tác giả đã viết: “Khi sinh ra, con người từ lòng mẹ bước vào trái đất; khi qua đời, con người từ lòng đất bước vào quê trời. Trời là “quê”, là nơi con người luôn hướng về, đau đáu một nỗi hoài niệm khôn nguôi. Khi hướng về một người hay một nơi chốn, là ta dành cho người hay nơi ấy một tình yêu mãnh liệt. Tình yêu ấy có thể giúp ta vượt lên những khó khăn thử thách. Hướng về trời cũng là hướng về sự hoàn thiện. Hành trình “về trời” cũng là hành trình của nỗ lực cố gắng không ngừng, nhằm thanh tẩy bản thân khỏi những bất toàn. Mỗi ngày sống trên trần gian, ta cảm nhận sự mới mẻ của cuộc sống xung quanh, đồng thời cảm nhận bàn tay quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. “Cám ơn Trời (hay Đời) mỗi sớm mai thức dạy; ta có thêm ngày mới để yêu thương”. Mục đích của việc tạo dựng con người là để được Thiên Chúa yêu thương. Con người cũng hiện hữu trên đời để sống tình yêu thương. Biết mình được yêu và thực thi yêu thương sẽ làm cho cuộc sống này tốt đẹp và nhân ái hơn. Thánh Au-gút-ti-nô đã cầu nguyện: “Lạy Chúa là vẻ đẹp của ngàn xưa, một vẻ đẹp mỗi ngày mỗi mới”. Mỗi ngày, Thánh nhân lại nhận ra nét mới mẻ về Thiên Chúa và tình thương của Ngài.
Hành trình cuộc đời là hành trình “về trời”. Tuy vậy, Ki-tô hữu không chỉ mải mê hướng về Trời mà dửng dưng với Đất. Trong lịch sử, Trời đã vào Đất. Ngôi Lời đã nhập thể và cư ngụ giữa chúng ta. Người đã đem lửa vào Đất và ước mong cho lửa ấy cháy bừng lên, sưởi ấm mọi cõi lòng và soi khắp miền thế giới. Đó là ngọn lửa yêu thương. Cuộc đời dương thế của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người là mẫu gương và động lực cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Chúa Giê-su đã yêu mến những kẻ thuộc về Người và Người yêu thương họ đến cùng (Ga 13,1). Như thế, Ngôi Lời làm người để rao giảng và thực thi đức yêu thương. Giáo huấn của Chúa Giê-su tóm lại trong một giới răn ngắn gọn: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thày đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Không chỉ yêu thương “những kẻ thuộc về mình”, Chúa Giê-su yêu mến tất cả những ai Người gặp gỡ trên đường đời, thậm chí cả những kẻ thù ghét Người. Chúa dành tình thương đặc biệt với những người bé mọn, cô thế cô thân và bị gạt ra bên lề của cuộc sống. Người là hiện thân và là Dung mạo Lòng Thương xót của Chúa Cha. Chúa Cha yêu Chúa Giê-su như thế nào, thì Chúa Giê-su cũng dành cho chúng ta tình yêu như thế. Tình yêu Chúa Giê-su dành cho chúng ta có chung một biên độ và cường độ như tình yêu của Chúa Cha dành cho Chúa Con. Đây là một huyền nhiệm con người không thể hiểu thấu. Đó là huyền nhiệm của tình yêu.
Có một thời, người ta quan niệm sai lầm rằng những người theo Đạo chỉ hướng về Trời như một ảo tưởng xa vời mà quên đi cuộc sống hằng ngày. Quan điểm này thường được một số triết gia vô thần trích dẫn. Nếu đọc Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giê-su mời gọi những ai tin vào Người phải trở nên muối đất, nên ánh sáng trần gian. Người cũng mời gọi các môn đệ (và các tín hữu) phải làm những việc tốt để những người khác nhìn vào đó mà tôn vinh Thiên Chúa (x. Mt 5,13-15). Chúa cũng nêu một điều kiện rõ ràng để người đời nhận ra các môn đệ của Người như sau: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thày ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Công đồng Vatican II đã nêu rõ: “Việc tông đồ nổi bật hơn cả chính là hoạt động xã hội của các Ki-tô hữu, và Thánh Công đồng ước ao hoạt động đó lan đến mọi lãnh vực trần thế, kể cả lãnh vực văn hóa” (TĐGD số 7). Ở một nơi khác, Công đồng mời gọi: “Người công dân phải nung nấu tinh thần yêu nước trong tinh thần cao thượng và trung kiên chứ không hẹp hòi ích kỷ, nghĩa là làm sao để đồng thời vẫn quan tâm đến ích lợi của toàn thể gia đình nhân loại, được nối kết bằng nhiều mối liên hệ khác nhau giữa các chủng tộc, sắc dân và quốc gia” (MV, số 75). Những trích dẫn trên đây khẳng định: Ki-tô hữu không phải là người bị “bứng rễ” khỏi dân tộc và truyền thống văn hóa của mình. Trái lại, họ được mời gọi cộng tác với Chúa để làm cho trần gian này trở nên phác thảo đời sau.
Khi mừng lễ Phục sinh cũng như lễ Thăng Thiên, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy hướng về trời, tìm kiếm những sự trên trời. Hướng về trời là hướng về quê hương. Nơi đó có Thiên Chúa Ba Ngôi, có Đức Trinh nữ Ma-ri-a, các thánh nam nữ mọi thời đại. Các thánh là những người tuy sống ở trần gian, nhưng vẫn coi quê trời là trung tâm điểm cho mọi chọn lựa, và lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho đời mình. Các ngài đã khơi nguồn sức mạnh không phải bằng những cách thức và phương tiện trần thế, nhưng nhờ ơn Chúa và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
“Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?”. Lời của hai sứ thần mặc áo trắng nói với các môn đệ khi các ông đang lưu luyến nhìn lên cao, khi Chúa Giê-su đang tiến vào đám mây. Các sứ thần muốn nói với các ông: hãy xuống núi, hãy trở về với cuộc đời để thực thi lệnh truyền của Đấng Phục sinh. Ga-li-lê là điểm gặp gỡ đầu tiên của Chúa Giê-su với các môn đệ. Ga-li-lê cũng là nơi xuất phát của một chương trình truyền giáo mới. Từ nay, các môn đệ được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, tràn đầy niềm vui và hứng khởi, hân hoan lên đường để kể cho mọi người về những gì mình đã cảm nhận, với niềm xác tín Người sẽ trở lại trong vinh quang.
“Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21). Qua những lời này, thánh Phao-lô cho chúng ta thấy tương lai cuộc đời theo nhãn quan Ki-tô giáo. Cuộc sống là hành trình “về trời” và mỗi chúng ta đang tiến về phía trước với niềm xác tín cậy trông, vì có Chúa đang chờ đợi chúng ta ở cuối con đường.
+TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
(Nguồn: tonggiaophanhanoi.org)
—————————
Suy niệm 2: Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh
CHÚA THĂNG THIÊN
Mầu nhiệm Chúa Giêsu thăng thiên chấm dứt giai đoạn Thiên Chúa tỏ mình ra trong thân phận làm người Nadarét, Người được sinh ra và lớn lên, sống đời lao động và rao giảng Tin mừng, chịu nạn chịu chết và được mai táng trong mồ. Ngày thứ ba đã được Thiên chúa cho sống lại, sau đó Người hiện ra nhiều lần để củng cố đức tin cho các môn đệ, rồi được rước về trời.
Sách Công vụ Tông đồ nói Đức Giêsu lên trời sau Phục Sinh 40 ngày (Bài đọc 1. Cv 1, 1-11), còn theo Tin Mừng Luca thì ngay ngày Phục Sinh, Chúa ngự về trời (Bài Tin Mừng. Lc 24, 46-53). Biến cố Lên Trời biểu lộ vinh quang của Đấng Phục Sinh, biến cố nầy không tách biệt khỏi mầu nhiệm Vượt Qua. Biến cố đánh dấu kết thúc cuộc đời trần gian của Đức Giêsu, tôn phong Người làm Đấng Mêsia, Đấng Cứu Tinh trần gian. Sự khác biệt về thời gian không quan trọng cho bằng việc phô bày mầu nhiệm phong phú nầy.
Tất cả mầu nhiệm Kitô giáo được thu tóm trong biến cố Chúa Lên Trời. Trong cuộc Tử Nạn, Đức Giêsu đã chiến thắng quyền lực sự dữ: Người đã từ chối hận thù, Người đã chiếu sáng tình yêu, Người đã đánh bại “các quyền lực và các ách thống trị”. Cho đến chết Người từ chối dùng bạo động, từ chối lấy oán báo oán, từ chối con đường cứu chộc dễ dãi bằng cách nhảy xuống khỏi thập giá để thiên hạ tin theo. Người giải phóng nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bằng con đường bất bạo động, bằng tình yêu hy sinh, chấp nhận tự hủy ra không, chấp nhận con đường thập tự giá.
Thánh Phaolô diễn tả việc Chúa Thăng Thiên như là sự chế ngự của Đức Giêsu trên tất cả những mãnh lực ràng buộc thống trị chúng ta. Người ngự trên mây về trời, đó là hình ảnh Đức Giêsu được cất lên cao khỏi những gì đối nghịch, ràng buộc nhân loại. Người nắm giữ quyền bính, đó là Vương Quốc của Thiên Chúa. Thăng Thiên biến cố trong tiến trình cứu chuộc, không tách rời biến cố Phục sinh được.
Thật vậy chiến công của cuộc tử nạn là sự sống lại được coi là phần thưởng cao quý vì Chúa đã chiến thắng thần chết, Người chịu chết để thống trị sự chết. Tuy nhiên sự sống lại không phải là dành lại sự sống ban đầu khi còn ở trần gian, nhưng là sự sống mới “trời mới và đất mới Đức Giêsu ngự trị”, sự sống phục sinh nầy được thông ban cho người tín hữu để họ tham gia vào sự sống của Thiên Chúa; điều nầy được diễn tả trong việc lên trời, như khẳng định chiến thắng thần chết, hoàn tất mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Đức Kitô.
Thăng thiên là cách nói khác về biến cố thực tế Phục Sinh. Ngay khi bước vào cuộc tử nạn, Đức Giêsu đã nói: “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh Con Cha” (Ga 17, 1). Và khi lên trời “Có đám mây quyện lấy Người”, đám mây trong bài đọc 1 nói lên vinh quang đó (x. Bài đọc 1. Cv 1, 9). “Đức Giêsu được cất lên ngay trước mắt các ông”, có nghĩa là Người biến mất trước cái nhìn vật lý, từ nay Người hiện diện một cách vắng mặt, có thể gọi là ‘hiện diện ảo’ mà không phải là ảo tưởng. Người thay đổi sự hiện diện hữu hình bằng hiện diện siêu hình. Một hình thức ‘hiện diện mới’ mà ngày nay người Kitô hữu chấp nhận như là điều kiện để tin dù không thấy. Đức tin là chấp nhận sự hiện diện của Đấng vô hình, là sống theo mẫu gương của Chúa Kitô.
Thăng thiên minh họa hoàn cảnh hiện nay của chúng ta, hoàn cảnh của thời kỳ sống trong đức tin: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Nhưng thử hỏi “Thiên Chúa ở đâu?” Người lên trời. Người rời khỏi tầm mắt chúng ta, tuy nhiên Người vẫn ở lại với chúng ta “cho đến khi hoàn tất các thế kỷ”. Tất cả muốn nói lên rằng Đức Giêsu thay đổi cách thức hiện diện, Người hiện diện bằng sự hiện diện thiêng liêng siêu hình.
Một sự vắng mặt mà vẫn hiện diện. Chúng ta không còn nhận thấy Chúa bằng con mắt phàm trần nữa. Thật ra Đức Giêsu loan báo việc Chúa Thánh Thần sẽ đến ngự trong chúng ta “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa” (Bài Tin Mừng. Lc 24, 49), chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô. Đừng bao giờ ly cách việc Đức Giêsu về trời với việc Chúa Thánh Thần ngự xuống và sự trở lại trong vinh quang của Chúa Giêsu Kitô. Đó là ba thời kỳ hoàn tất công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Ngước mắt nhìn trời như các tông đồ ngày Chúa thăng thiên, nhắc cho chúng ta quê thật của chúng ta ở trên trời, như nữ thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu nhìn trời đêm tối, rồi phát hiện ra tên của mình được viết tắt trên bầu trời qua các vì sao lấp lánh hình chữ “T” . Thật vậy cùng đích của chúng ta là tìm Nước Trời, nhưng vẫn hòa tất các mụch tiêu trần thế như bao nhiêu người khác. Như vậy Nước Trời khơi mào từ cuộc sống trần gian và sẽ hoàn tất ngày chúng ta về trời.
Lạy Chúa Giêsu Thăng Thiên, Chúa là niềm vui tràn ngập lòng chúng con vì Chúa là con người nhân loại của trái đất nầy đã bước vào Nước Trời, Chúa là con én báo hiệu mùa xuân thiên quốc, để chúng con “lòng đầy hân hoan” tiến bước trong hy vọng về trời mai ngày. Amen. Allêluia.
(Lm Luy Nguyễn Quang Vinh, Giáo xứ Đức An, Pleiku)
___________________________________
Suy niệm 3: Lm. Thái Nguyên
CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Suy niệm
Kinh Thánh hôm nay khép lại Tin Mừng Luca bằng hình ảnh thật đẹp và linh thánh: Đức Giêsu giơ tay chúc lành và được cất lên trời. Một cử chỉ cuối cùng – nhưng chất chứa trọn vẹn cả một đời yêu thương và hiến trao. Từ máng cỏ Bêlem đến đồi Canvê, từ ngôi mộ trống đến đỉnh núi Thăng Thiên – cả cuộc đời của Đức Giêsu là một hành trình dâng hiến và trao ban: trao ban Lời Ngài, trao ban chính Mình Ngài, trao ban cả Thánh Thần của Ngài, và cuối cùng là trao ban sứ mạng cho chúng ta.
“Anh em là chứng nhân của những điều ấy” (Lc 24,48). Ngài không chọn thiên thần, không chọn những người hoàn hảo, nhưng chọn chúng ta, những người còn yếu đuối, nhưng dám tin, dám sống, dám lên đường. Các tông đồ và những đấng kế vị đã thực hiện sứ mạng đó, và Giáo hội Chúa đã có mặt hầu hết các quốc gia. Đức tin của chúng ta được xây dựng trên chứng tá của các ngài, và biết bao vị tử đạo đã hiến cả mạng sống để loan báo Tin Mừng. Ngày nay, lời mời gọi ấy vẫn còn nguyên tính cấp bách. Chúa vẫn mời gọi từng người chúng ta: “Con hãy làm chứng cho Thầy giữa lòng thế giới.”
Không thể gói gọn cuộc sống đức tin của mình bằng những lời kinh hay thánh lễ trong nhà thờ; cũng không thể bó hẹp đời sống Kitô hữu của mình vào trong cộng đoàn giáo xứ hay dòng tu, mà cụ thể là phải đi vào đời, hòa mình vào dòng chảy của nhân loại, để hạt Tin Mừng được gieo vào lòng con người. Chẳng ai có thể lên thiên đàng một mình nếu không sống tình liên đới và quan tâm đến phần rỗi của người khác. Điều này đòi ta phải ra khỏi mình để hướng đến anh chị em lương dân xung quanh. Phải thăm viếng, gặp gỡ, gần gũi, chia sẻ, nâng đỡ, và cứu giúp những anh chị em neo đơn, nghèo khổ, yếu đau, tật nguyền.
Mỗi người chúng ta có một vị trí riêng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không ai thay ai được. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 48, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta: “Hãy lên đường, hãy cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Kitô… Tôi muốn thấy một Giáo Hội bị bầm giập, tổn thương và lấm lem trên đường dấn thân, chứ không phải là một Gíao hội ‘xanh xao vàng vọt’ vì sống đóng khung và bám víu vào chu vi hàng rào an toàn của riêng mình”… “Các con hãy ra đi, không sợ hãi, để phục vụ”.
Tuy Chúa Giêsu về trời không còn hiện diện cách hữu hình, nhưng Ngài vẫn hiện diện cách vô hình trong Lời Kinh Thánh, trong Bí tích Thánh Thể, và trong cuộc đời của những ai sống gắn bó với Ngài, như lời Ngài đã hứa: “Thầy ở lại với anh em cho đến ngày tận thế” (Mt 28, 17-20). Lời Chúa là ánh sáng và Mình Chúa là sức sống cho chúng ta trên hành trình làm chứng.
Có một câu chuyện như sau: Ở một ngôi làng Phi Châu nhỏ, người ta thấy một người đàn ông bại liệt, mỗi sáng đều bò ra khỏi nhà, lết đến nhà thờ, ngồi bên ngoài, rồi lết về. Người ta hỏi ông: “Ông đến để làm gì? Ông không nghe được, không nói được, không vào được.” Ông viết lên bảng: – “Tôi chỉ đến để nhắc mình và người khác rằng Thiên Chúa là trung tâm đời tôi.” Không nói một lời. Nhưng cuộc đời ông là lời chứng hùng hồn.
Mỗi người chúng ta – dù ở đâu – dù thế nào, cũng phải trở nên một Tin Mừng sống động. Và đôi khi, chúng ta là “cuốn Phúc Âm duy nhất” mà người khác có thể đọc được. Chúng ta không cần làm điều phi thường để làm chứng cho Chúa. Chỉ cần chúng ta:
-
Không gian dối giữa một xã hội đầy gian dối.
-
Không nói hành nói xấu giữa đám người ngồi lê đôi mách.
-
Không bỏ cuộc trước thử thách, nhưng kiên trì trong cầu nguyện.
-
Không cần nổi tiếng, chỉ cần trung tín mỗi ngày.
-
Không cần nói nhiều, chỉ cần sống hiền lành, yêu thương, khiêm nhường, tha thứ…để tỏa ra hương thơm của Chúa Giêsu.
Thực tế có nhiều người trong chúng ta đang là những nhân chứng âm thầm: một người cha không bỏ bê gia đình dù cực khổ, mà còn đi lễ hằng ngày; là một người mẹ thức khuya dậy sớm lo cho con mà vẫn không ngừng lần chuỗi; một cụ già cô đơn bệnh tật mà vẫn âm thầm cầu nguyện cho con cháu mỗi ngày… Những người đó – Chúa thấu suốt. Chính họ đang giữ cho Giáo Hội đứng vững giữa trần gian.
Chúa Giêsu lên trời, không để rời xa nhân loại, nhưng để mở ra một niềm hy vọng, một chiều kích mới cho cuộc sống trần thế. Trời mới đất mới không chỉ là một hứa hẹn mai sau, mà đã bắt đầu từ hôm nay trong từng việc nhỏ: khi chúng ta xây dựng một xã hội công bằng hơn, chân thật hơn, huynh đệ hơn, bác ái hơn… để đón mừng ngày Chúa quang lâm. Đó cũng là ngày mà chúng ta được về trời vinh hiển với Chúa, sau khi hoàn thành sứ vụ của mình với cả tình yêu mến.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã về trời,
nhưng Chúa vẫn hiện diện giữa trần gian,
trong Bí Tích Thánh Thể mãi tuôn tràn,
là chính Chúa thần lương cho tín hữu.
Chúa về trời nhưng Lời Ngài còn đó,
dẫn con qua những thử thách trần gian,
cho cuộc sống khỏi lạc bến mê man,
và tim con vững vàng trong ánh sáng.
Chúa về trời nhưng ban Thánh Thần xuống,
để giữ gìn che chở Giáo Hội luôn,
giúp con biết hành động trong sự thật,
đem an bình ích lợi cho thế nhân.
Chúa về trời nhưng hiện diện khắp nơi,
qua mọi người mọi biến cố nhỏ to,
nhất là qua những con người nghèo khó,
mời gọi con biết ý thức chăm lo.
Chúa gọi con đi vào lòng thế giới,
gieo Tin Mừng đến với mọi tha nhân,
để đời con là thánh lễ nối dài,
cho ơn Chúa ngày càng sinh hoa trái.
Chúa về trời mở ra sự sống mới,
đó chính là sự sống mãi muôn đời,
trong niềm vui và hạnh phúc chẳng vơi,
cho chúng con niềm hy vọng sáng ngời.
Xin cho con vững một lòng tin cậy,
để hăng say xây dựng cuộc sống này,
và chờ ngày Chúa đến trong vinh quang,
cho đoàn con được hưởng phúc thiên đàng. Amen.
Lm. Thái Nguyên
(Nguồn: gpcantho.com)
______________________________
Suy niệm 4: Lm. Giuse Đỗ Cao Bằng, SJ
“Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Lc 24:51).
Quý ông bà và anh chị em thân mến,
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Thăng Thiên. Thực ra, Lễ này được mừng kính vào thứ Năm vừa qua như lời Kinh Thánh chép rằng sau 40 ngày Chúa sống lại thì Người về trời (x. Cv 1:3). Tuy nhiên, vì lợi ích xác hồn của các tín hữu, Giáo Hội dời lễ này tới ngày Chúa Nhật để mừng trọng thể nhằm tạo điều kiện cho mọi người đều có thể tham dự.
Một điểm khác nữa, đó là biến cố Chúa Lên Trời chỉ có hai tác giả Tin Mừng thuật lại: thánh Luca (bài Tin Mừng hôm nay và Cv 1:1-11) và thánh Mác-cô (x. Mc 16:19).
Khi cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ về ngày Chúa Lên Trời, quý vị có suy nghĩ gì, đâu là thông điệp Chúa muốn gởi tới quý vị?
Phần tôi, khi cầu nguyện với đề tài này, tôi được đánh động vài điểm sau đây:
Thứ nhất, Chúa lên trời là để tôi cũng được lên trời với Người. Với xác thịt mọn hèn, tôi sống trên mặt đất, chân đạp đất, rồi sẽ được chôn vùi dưới lòng đất. Với linh hồn bất tử, tôi sẽ được đưa lên trời, có thể chạm tới trời cao khi hướng lòng về với Chân Thiện Mỹ, có thể nếm trải hương vị của cõi thiêng liêng vĩnh hằng bằng đức tin và lòng mến Chúa. Nước Trời ngay trong tâm hồn tôi khi tôi biết hướng về sự thiện hảo, về trời cao thanh khiết. Vì thế, nhờ linh hồn bất tử được chạm tới thiên không thanh khiết mà thân xác tôi được bồi đắp vẹn toàn, được mạnh mẽ hơn để yêu thương và phục vụ sứ mạng của Chúa. Vì lẽ đó, Chúa là Chân – Thiện – Mỹ để tôi bắt chước Người và được nên Thánh.
Thứ hai, Chúa về trời để tôi được tự do sống như một Đức Ki-tô khác (tiếng Latin gọi là Alter Christus). Đó cũng là thông điệp Chúa gửi tới tôi như một di chúc thiêng liêng của Người. Thông điệp này cũng là một sứ mạng chứa nhiều thách đố. Làm thế nào để tôi có thể trở nên một Ki-tô khác? Làm thế nào để tôi nhận ra một Ki-tô khác giữa cuộc sống và sứ mạng của mình? Làm thế nào để tôi giúp người khác trở nên một Ki-tô khác như lòng Chúa mong ước? Làm thế nào mọi linh hồn đều biết hướng về trời cao để được sống tự do, bình an và vui tươi như cõi thiên thai cực lạc mà Chúa Phục Sinh và các thánh đang sum vầy, hát ca bên Bàn Tiệc Vô Tận?
Thứ ba, Chúa về trời để tôi luôn sống trong niềm hy vọng và xác tín rằng Chúa luôn dõi nhìn và bảo vệ tôi từng phút giây, vì Người ở trên cao và nhìn thấy hết mọi sự. Người thấy tôi đang phạm sai lầm và nhẹ nhàng nhắc nhở. Người thấy tôi đang đi lạc đường và vội vàng dẫn tôi trở về đường ngay nẻo chính. Người thấy tôi đang xa tránh các bạn của Người và khe khẽ dìu tôi trở lại sống gần gũi với họ hơn. Người giúp tôi can đảm và biết cậy trông vào Người khi đi trên đường thập giá, vì Người đang ở trên cao phủ bóng che chở tôi.
Sau cùng, Chúa về trời để tôi có cơ hội ngắm nhìn Người như các môn đệ đăm đăm nhìn trời cao hướng về Chúa của mình, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, lòng tràn ngập vui mừng và hy vọng. Tôi có thể lắng nghe lời Người, nói chuyện với Người trong lòng Tin Cậy Mến, nhớ lại những gì Người đã làm gương cho tôi khi mặc lấy xác phàm sống như người trần thế. Sau khi ngước nhìn trời cao nơi Đấng Phục Sinh ngự trị, tôi có đủ niềm tin và sức mạnh để học với Người và học nơi Người, sống và làm chứng về Người như các môn đệ thuở xưa trong niềm hy vọng lớn lao là sẽ được chia sẻ vinh quang thiên quốc với Người.
Quý ông bà và anh chị em thân mến,
Trên đây chỉ là những chia sẻ nhỏ về kinh nghiệm của bản thân tôi khi ngắm nhìn biến cố Chúa Thăng Thiên. Tôi tin rằng khi quý vị cầu nguyện với đề tài Chúa Lên Trời, quý vị cũng sẽ có được những cảm nếm thiêng liêng và nghe được những thông điệp yêu thương của Chúa để nhờ đó tình bạn giữa quý vị với Chúa thân thiết hơn và tiếp tục bước theo dấu chân của Người trên con đường thập tự, tựa như một người thân chuẩn bị “về trời với Chúa” thường nhắn nhủ những người ở lại những thông điệp, những lời trăng trối… Lời trăng trối của Chúa Giêsu trước lúc về trời trong đoạn Tin Mừng hôm nay là “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân… và là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:47-48). Có thể trong thế giới hôm nay và với hoàn cảnh cũng như khả năng khác biệt của mỗi người, Chúa gửi tới chúng ta những thông điệp khác nhau. Quý vị hãy cố gắng lắng nghe thông điệp của Chúa, quý vị nhé!
Để kết thúc, tôi xin mạn phép kể một câu chuyện mà tôi được đọc lâu rồi, không nhớ rõ chi tiết, chỉ nhớ nội dung khái quát thế này:
Có một cặp vợ chồng đang lênh đênh trên biển (có thể họ là những thuyền nhân đang đi tị nạn chăng), thuyền đang chìm và chỉ còn một cái phao đang nổi trôi đằng xa mà thôi. Hai vợ chồng dùng dằng, chẳng ai muốn xa nhau. Thế nhưng, cuối cùng người vợ nói nhỏ vào tai chồng điều gì đó. Nghe xong, người chồng lập tức nhảy khỏi thuyền bơi tới chộp cái phao để thoát chết. Người vợ ở lại chết chìm với con thuyền. Những người chứng kiến cảnh tượng này đã khinh dể người chồng cho rằng anh ta tham sống sợ chết và là kẻ phụ tình. Trở về với cuộc sống thường ngày, anh ta chăm chỉ lao động, sống mẫu mực, đảm đang vai trò “gà trống nuôi con”, bỏ mặc những tiếng đồn và lời dèm pha ác ý của xóm giềng. Rồi một ngày kia, các con anh khôn lớn, ai nấy đều thành danh, và anh già, đau bệnh, rồi từ giã cõi đời mà không một lời phân trần giải thích cho các con nghe những tiếng thị phi. Bỗng một hôm, các con anh dọn dẹp căn phòng và nhìn thấy một cuốn sổ nhật ký trong đó có những lời tâm sự của anh với người vợ quá cố rằng: “Anh sẽ cố gắng thực hiện ước nguyện của em. Anh sẽ sống tốt, sẽ nuôi dạy các con thành tài. Anh không sao quên được những lời nói sau cùng của em: ‘Anh phải sống, vì các con cần anh! Em không còn sống được bao lâu nữa. Em đã bị ung thư giai đoạn cuối rồi. Nếu em sống, em cũng sẽ chết sớm và không thể chăm sóc, dưỡng dục các con nên người được!’ Dẫu biết thế, nhưng anh vẫn không muốn em chết. Vì các con và vì lời trăng trối của em, anh sẽ sống để chu toàn nghĩa vụ; nhưng em, em vẫn mãi sống trong trái tim anh.”
Chúc quý vị cầu nguyện sốt sắng!