Gặp Gỡ 7 Vị Chân Phước Được Đức Giáo Hoàng Lêô XIV Tuyên Thánh Vào Ngày 19 Tháng 10

Hình ảnh của các vị tân hiển thánh được treo tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô
để mọi người có thể chiêm ngưỡng.
Ảnh: Courtney Mares / CNA

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV sẽ tuyên thánh cho bảy vị Chân phước vào Chúa nhật này, bao gồm một luật sư người Ý đã từ bỏ phong trào thờ Satan và trở thành “một tông đồ của Kinh Mân Côi,” một Tổng Giám mục người Armenia tử đạo, và một người Venezuela được coi là “bác sĩ của người nghèo”

Lễ tuyên thánh, trước đây đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phê chuẩn, sẽ do Đức Giáo Hoàng Lêô XIV chủ sự vào ngày 19 tháng 10 tại Vatican. Nhóm các vị Chân phước này bao gồm ba phụ nữ và bốn nam giới, với hai vị tử đạo, ba giáo dân và hai nhà sáng lập các dòng tu. Trong số đó có vị thánh đầu tiên của Papua New Guinea và hai vị thánh đầu tiên đến từ Venezuela.

Hãy cùng tìm hiểu về những vị Chân phước sắp được tuyên thánh này:

  Từng là một tư tế được “thụ phong” cho phong trào thờ Satan, Bartolo Longo đã trải qua một trong những cuộc trở lại đạo ngoạn mục nhất trong lịch sử Giáo Hội gần đây,  và sẽ được tuyên thánh vào Chúa Nhật, ngày 19 tháng 10 năm 2025 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Ảnh: Courtney Mares / CNA

Bartolo Longo (1841–1926)

Bartolo Longo đã trải qua một trong những cuộc trở lại đạo ngoạn mục nhất trong lịch sử Giáo Hội gần đây. Ngài lớn lên trong một gia đình Công giáo, nhưng sau khi học luật tại một trường đại học ở Naples, Ý, ngài đã chuyển từ một người Công giáo ngoan đạo sang tham gia các cuộc biểu tình chống phá giáo hoàng, cho đến trở thành một người vô thần, rồi theo phong trào thờ Satan, và cuối cùng được “thụ phong” làm tư tế cho phong trào thờ Satan.

Nhờ lời cầu nguyện của gia đình và ảnh hưởng của những người bạn đạo đức, đặc biệt là Giáo sư Vincenzo Pepe và linh mục Dòng Đa Minh Alberto Radente, Longo đã trải qua một sự hoán cải sâu sắc, từ bỏ quá khứ và toàn tâm toàn ý trở về với Giáo Hội Công Giáo.

Sau khi trở lại đạo, Longo đã cống hiến cuộc đời mình cho việc truyền bá kinh Mân Côi cũng như sứ điệp về lòng thương xót và hy vọng qua Đức Trinh Nữ Maria. Ngài định cư tại thị trấn Pompeii nghèo khó, nơi ngài bắt đầu trùng tu một nhà thờ đổ nát và làm việc không mệt mỏi để xây dựng một đền thờ Đức Mẹ Mân Côi. Với sự hỗ trợ từ các nhà hảo tâm và cộng đồng địa phương, ngài đã biến Pompeii thành một trung tâm sùng kính thịnh vượng của Công giáo. Những nỗ lực của ngài đã đạt đến đỉnh cao với việc xây dựng Đền thờ Đức Mẹ Mân Côi Pompeii, nơi vẫn là một địa điểm hành hương quan trọng cho đến ngày nay.

Bên cạnh công việc tôn giáo, Longo còn là một người đấu tranh không mệt mỏi cho công bằng xã hội. Ngài thành lập các trường học, trại trẻ mồ côi và các tổ chức từ thiện, đặc biệt là cho con cái của các tù nhân, tin tưởng vào sức mạnh của giáo dục và lòng thương xót có thể biến đổi cuộc sống.

Trong 20 năm cuối đời, Longo liên tục gặp vấn đề về sức khỏe. Ngài qua đời vào ngày 5 tháng 10 năm 1926, và năm 1980 được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Chân phước, gọi ngài là “Tông đồ của Kinh Mân Côi.” 

 Ignatius Maloyan là Tổng Giám mục Công giáo Armenia của Mardin thuộc Đế chế Ottoman, người đã bị hành quyết trong cuộc diệt chủng người Armenia vì từ chối cải đạo sang Hồi giáo và từ bỏ đức tin Kitô giáo. Ngài sẽ được Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tuyên thánh tại Quảng trường Thánh Phêrô vào Chúa nhật, ngày 19 tháng 10 năm 2025.
Ảnh: Courtney Mares / CNA

Ignatius Choukrallah Maloyan (Đế quốc Ottoman, 1869 – 1915)

Ignatius Maloyan là một Tổng Giám mục Công giáo Armenia của Mardin thuộc Đế quốc Ottoman, người đã bị hành quyết trong cuộc diệt chủng người Armenia vì từ chối cải đạo sang Hồi giáo và từ bỏ đức tin Kitô giáo của mình.

Năm 14 tuổi, Maloyan được gửi đến tu viện Bzommar-Liban. Năm 1896, ngài được thụ phong linh mục tại tu viện Bzommar và lấy tên Ignatius để vinh danh vị tử đạo đáng kính của Antioch.

Từ năm 1892 đến năm 1910, Maloyan là một linh mục giáo xứ ở Alexandria và Cairo, nơi danh tiếng của ngài lan rộng. Ngày 22 tháng 10 năm 1911, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Mardin.

Ngay sau đó, Thế chiến thứ nhất bùng nổ và người Armenia ở Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu chịu đựng những đau khổ to lớn. Ngày 3 tháng 6 năm 1915, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã xiềng Maloyan ra tòa cùng với 27 nhân vật Công giáo Armenia khác. Trong phiên tòa, Mamdooh Bek, cảnh sát trưởng, đã yêu cầu Maloyan cải đạo sang Hồi giáo. Vị Tổng Giám mục trả lời rằng ngài sẽ không bao giờ phản bội Đức Kitô và Giáo Hội của Người cũng như sẵn sàng chịu đựng mọi hình phạt vì lòng trung thành của mình. Ngài bị cầm tù và thường xuyên bị đánh đập.

Ngày 10 tháng 6, quân Thổ Nhĩ Kỳ đã tập hợp 447 người Armenia và đưa họ đến một khu vực hoang vắng. Trong suốt thời gian thử thách, Đức Tổng Giám mục Maloyan đã động viên những người có mặt hãy giữ vững đức tin và cầu nguyện cùng họ để họ can đảm đón nhận phúc tử đạo.

Sau hai giờ đi bộ, trần truồng và bị xiềng xích, những tù nhân đã bị quân lính giết chết trước mặt Maloyan. Bek một lần nữa yêu cầu Đức Tổng Giám mục Maloyan cải đạo sang Hồi giáo. Ngài đã từ chối và bị Bek bắn chết vào đúng ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Trước khi bị giết hại, Đức Tổng Giám mục Maloyan nói: “Tôi coi việc đổ máu mình vì đức tin là khát vọng ngọt ngào nhất trong lòng tôi, bởi vì tôi biết rõ rằng nếu tôi bị tra tấn vì tình yêu dành cho Đấng đã chết vì tôi, thì tôi sẽ là một trong số những người có được niềm vui và hạnh phúc, và tôi sẽ được nhìn thấy Chúa và Thiên Chúa của tôi trên đó.”

Ngài được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Chân phước vào ngày 7 tháng 10 năm 2001. 

 Peter To Rot, một giáo lý viên giáo dân ở Papua New Guinea, sẽ được Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tuyên thánh tại Vatican vào Chúa Nhật, ngày 19 tháng 10 năm 2025.
To Rot đã tử đạo trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng trong Thế chiến II.
Ảnh: Courtney Mares / CAN

Peter To Rot (Papua New Guinea, 1912-1945)

Peter To Rot, một giáo lý viên giáo dân ở Papua New Guinea, đã tử đạo trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai. Khi vị linh mục Công giáo trong làng của ngài bị đưa đến trại lao động của Nhật Bản, vị linh mục đã giao cho To Rot phụ trách việc dạy giáo lý cho làng và dặn dò ngài trước khi bị bắt: “Hãy giúp đỡ họ, để họ không quên Thiên Chúa.”

Bất chấp sự bách hại của người Nhật Bản, To Rot vẫn âm thầm hoạt động để giữ vững đức tin. Ngài là một người bảo vệ vĩ đại cho hôn nhân Kitô giáo, đấu tranh chống lại luật pháp Nhật Bản, vốn cho phép đàn ông lấy vợ hai.

Vào thời kỳ cuối cuộc chiến, các quy định chống lại tự do tôn giáo càng trở nên nghiêm ngặt hơn, với bất kỳ hình thức cầu nguyện nào đều bị cấm. To Rot bị bắt và bị đưa đến trại lao động khổ sai vào năm 1944 vì liên tục bất tuân lệnh. Năm 1945, ngài bị xử tử bằng cách tiêm thuốc độc và được coi là một vị tử đạo vì đức tin Công giáo. Ngài được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Chân phước vào ngày 17 tháng 1 năm 1995. Ngài sẽ là vị thánh đầu tiên của Papua New Guinea. 

José Gregorio Hernández, một bác sĩ, nhà khoa học và giáo dân người Venezuela được tôn kính như là “bác sĩ của người nghèo,” sẽ được Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tuyên thánh vào Chúa nhật, ngày 19 tháng 10 năm 2025 tại Vatican.
Ảnh: Courtney Mares / CAN

José Gregorio Hernández (Venezuela, 1864–1919)

José Gregorio Hernández, một bác sĩ, nhà khoa học và giáo dân người Venezuela, được tôn kính như là “bác sĩ của người nghèo.”

Sinh ngày 26 tháng 10 năm 1864 tại Isnotú, bang Trujillo, Venezuela, ngài mất mẹ lúc 8 tuổi.

Ngài theo học y khoa ở Caracas và được chính phủ tài trợ để tiếp tục học tập tại Paris vào năm 1889 trong hai năm. Sau khi trở về Venezuela, ngài trở thành giáo sư tại Đại học Trung tâm Caracas, nơi ngài bắt đầu mỗi bài học bằng Dấu Thánh giá.

Hernández tham dự Thánh lễ hàng ngày, mang thuốc men và sự chăm sóc đến cho người nghèo, và tuyên khấn trong Dòng Ba Phanxicô. Năm 1908, ngài bỏ nghề và gia nhập một tu viện kín Dòng Carthusian (Dòng Chartreux của Thánh Bruno) ở Farneta, Ý. Tuy nhiên, chín tháng sau, ngài lâm bệnh và bề trên ra lệnh cho ngài trở về Venezuela để hồi phục.

Sau một thời gian, Hernández kết luận rằng thánh ý Thiên Chúa muốn ngài tiếp tục làm giáo dân. Sau đó, ngài quyết định thúc đẩy sự thánh thiện như một người Công giáo gương mẫu bằng cách trở thành bác sĩ và tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phục vụ người bệnh. Ngài cống hiến hết mình cho nghiên cứu học thuật và ngày càng tận tụy phục vụ người nghèo.

Một ngày nọ, khi đi lấy thuốc cho một phụ nữ lớn tuổi nghèo khổ, ngài bị một chiếc xe hơi đâm phải. Ngài qua đời tại bệnh viện vào ngày 29 tháng 6 năm 1919. Ngài được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phong Chân phước vào ngày 30 tháng 4 năm 2021. 

Maria Troncatti, một nữ tu Dòng Salêdiêng người Ý, đã dành gần năm thập kỷ để truyền giáotại rừng nhiệt đới Amazon của Ecuador, giữa những người bản địa Shuar. Ngài là một trong ba phụ nữ được Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tuyên thánh vào Chúa nhật, ngày 19 tháng 10 năm 2025 tại Vatican.
Ảnh: Courtney Mares / CNA

Maria Troncatti (Ý/Ecuador, 1883–1969)

Maria Troncatti, một nữ tu Dòng Salêdiêng người Ý, đã dành gần năm thập kỷ để truyền giáo tại rừng nhiệt đới Amazon của Ecuador, giữa những người bản địa Shuar.

Lớn lên ở Ý, Troncatti đã thể hiện sự quan tâm đến đời sống tu trì từ khi còn nhỏ. Ngài tuyên khấn lần đầu với tư cách là thành viên của Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, còn được gọi là Dòng Nữ Tu Salêdiêng Don Bosco, vào năm 1908.

Trong Thế chiến thứ nhất, Sơ Maria được đào tạo về chăm sóc sức khỏe và làm y tá cho Hội Chữ thập đỏ tại một bệnh viện quân y. Năm 1925, ngài bắt đầu sứ mệnh phục vụ người da đỏ Shuar trong rừng Amazon ở phía đông nam Ecuador. Trong suốt 44 năm, ngài được mọi người trong làng gọi là “Madrecita” hay “Người mẹ nhỏ bé.” Ngài không chỉ phục vụ với tư cách là bác sĩ phẫu thuật, nha sĩ, y tá, bác sĩ chỉnh hình và bác sĩ gây mê, mà còn là một giáo lý viên trung thành chia sẻ Tin Mừng với tất cả những người mà ngài phục vụ.

Sơ Maria qua đời ở tuổi 86 vào ngày 25 tháng 8 năm 1969, trong một vụ tai nạn máy bay. Ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI phong Chân phước vào năm 2012. 

Carmen Elena Rendiles Martínez sinh ra tại Caracas mà không có cánh tay trái và được tặng cho một cánh tay giả mà ngài đã sử dụng suốt đời. Ngài đã sáng lập Dòng Tôi Tớ Chúa Giêsu tại Caracasvà phục vụ với tư cách là Bề trên Tổng quyền của dòng. Ngài sẽ trở thành vị thánh nữ đầu tiên của Venezuela vào Chúa Nhật, ngày 19 tháng 10 năm 2025, khi bà được Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tuyên thánh.

Ảnh: Courtney Mares / CNA

María del Carmen Rendiles Martínez (Venezuela, 1903–1977)

Carmen Elena Rendiles Martínez sinh ra tại Caracas, Venezuela, không có cánh tay trái và được tặng cho một cánh tay giả mà vị nữ tu này đã sử dụng suốt đời.

Năm 1918, Martínez bắt đầu cảm thấy có ơn gọi tu trì, nhưng chứng khuyết tật lại bị một số dòng tu thời đó coi là lý do để ngài bị từ chối. Cuối cùng, ngài gia nhập Dòng Tôi Tớ Thánh Thể vào năm 1927 và lấy tên là María Carmen. Ngài từng nói: “Tôi muốn nên thánh. Tôi muốn nói như Thánh Phaolô: Không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi.”

Khi cộng đoàn của ngài tìm kiếm sự tự chủ từ nhà mẹ ở Pháp vào năm 1965, ngài đã thành lập Dòng Tôi Tớ Chúa Giêsu tại Caracas để tiếp tục sứ mệnh sùng kính Thánh Thể. Ngài giữ chức vụ Bề trên Tổng quyền của dòng từ năm 1969 khi được bổ nhiệm cho đến khi qua đời năm 1977 vì bệnh cúm.

Ngài được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phong Chân phước vào năm 2018 và sẽ trở thành vị thánh nữ đầu tiên của Venezuela. 

 Vincenza Maria Poloni, một nữ tu người Ý, đã sáng lập Dòng Nữ tu Lòng Thương Xót Verona để chăm sóc người nghèo, người bệnh và người cao tuổi. Ngài sẽ được Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tuyên thánh vào Chúa nhật, ngày 19 tháng 10 năm 2025 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Ảnh: Courtney Mares / CAN

Vincenza Maria Poloni (Ý, 1802–1855)

Vincenza Maria Poloni, một nữ tu người Ý, đã thành lập Dòng Nữ tu Lòng Thương Xót Verona để chăm sóc người nghèo, người bệnh và người già.

Sinh ra là con út trong gia đình có 12 anh chị em, ngài đã nhận ra ơn gọi của mình dưới sự hướng dẫn của Chân phước Charles Steeb khi ngài dành thời gian làm việc với người nghèo, người già và người bệnh mãn tính.

Năm 1836, trong trận dịch tả năm 1836, ngài đã làm việc không mệt mỏi tại các khoa cấp cứu, bất chấp nguy cơ sức khỏe của bản thân. Năm 1840, ngài dành toàn bộ thời gian chăm sóc người bệnh và người già, và bắt đầu sống một lối sống tương tự như một nữ tu – cầu nguyện sốt sắng, tuân thủ nghiêm ngặt lịch trình, và hoàn toàn tận tụy phục vụ người khác.

Ngày 10 tháng 9 năm 1848, Poloni thành lập Dòng Nữ tu Thương Xót Verona và lấy tên là Vincenza Maria. Khẩu hiệu của ngài, “Phục vụ Đức Kitô nơi người nghèo,” đã trở thành nền tảng cho dòng tu của ngài, hiện có mặt trên ba châu lục. Ngài qua đời vào ngày 11 tháng 11 năm 1855, do một khối u đã di căn khắp cơ thể. Ngài được phong Chân phước vào năm 2008.

 Hình ảnh của các vị tân hiển thánh được treo tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô để mọi người có thể chiêm ngưỡng.
Ảnh: Courtney Mares / CAN

 

Chuyển ngữ: Lm. Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên

Từ: Catholic News Agency (18/10/2025)

Nguồn: giaophanvinhlong.net