Linh Hồn Vượt Lên Trên Phần Mềm – Giáo Hội Bước Vào Cuộc Cách Mạng AI
Linh Hồn Vượt Lên Trên Phần Mềm – Giáo Hội Bước Vào Cuộc Cách Mạng AI
Thomas Banchoff
Tuyên bố gần đây của Vatican về trí tuệ nhân tạo, Antiqua et nova, là một đóng góp mới quan trọng cho tư tưởng xã hội Công giáo. Văn kiện do Thánh Bộ Giáo lý Đức tin và Thánh Bộ Văn hóa và Giáo dục công bố chung, với sự phê chuẩn của Đức Giáo hoàng Phanxicô, mang phụ đề “Những lưu ý về mối tương quan giữa Trí tuệ nhân tạo và Trí tuệ con người”. Dù truyền thông toàn cầu tập trung vào lời kêu gọi của văn kiện về việc giám sát đạo đức và quản lý hiệu quả đối với AI trong nhiều lĩnh vực từ lao động, giáo dục đến đến quốc phòng, thì phần lớn Antiqua et nova là một suy tư sâu rộng về những hệ lụy mang tính nhân học và đạo đức của cuộc cách mạng AI. Với tiêu đề gợi lại thông điệp Rerum Novarum năm 1891 của Đức Leo XIII, vốn khai mở học thuyết xã hội Công giáo hiện đại, Antiqua et nova đưa Giáo hội bước vào đối thoại toàn diện với công nghệ mang tính biến đổi của thời đại.
Thông điệp của Đức Lêô XIII từng khởi đầu với “tinh thần của sự thay đổi mang tính cách mạng” và “sự mở rộng to lớn của công nghiệp cùng những phát minh kỳ diệu của khoa học” nhưng lại không suy tư gì nhiều về công nghệ. Thông điệp xã hội quan trọng tiếp theo, Quadragesimo anno năm 1931 của Đức Piô XI, cũng chỉ ghi nhận “sự lan rộng của nền công nghiệp hiện đại trên toàn thế giới” và ảnh hưởng sâu rộng của nó đối với đời sống kinh tế và xã hội, nhưng vẫn chưa gắn kết công nghệ với giáo huấn Giáo hội. Đức Piô XII mới là vị giáo hoàng khởi xướng. Trong sứ điệp Giáng Sinh năm 1953, ngài cảnh báo về “sự đề cao quá mức, và đôi khi độc tôn, đối với cái gọi là ‘tiến bộ công nghệ’”, vốn tìm cách thay thế “mọi lý tưởng tôn giáo và tinh thần”. Tuy nhiên, ngài không chống công nghệ; trái lại, ngài nhấn mạnh: “Không thể phủ nhận rằng tiến bộ công nghệ đến từ Thiên Chúa, và do đó nó có thể và phải hướn dẫn con người đến cùng Thiên Chúa”. Song ngài phê phán “tinh thần công nghệ” đang lan tràn trong nền kinh tế và xã hội, một tinh thần vốn “chỉ công nhận và coi là thực những gì có thể được diễn đạt bằng những công thức toán học và tính toán vị lợi”.
Những cuộc tranh luận tại Công đồng Vatican II xoay quanh Gaudium et spes, Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới ngày nay (1965), đã đề cập đến mối tương quan giữa công nghệ và những nguyên tắc cốt lõi của học thuyết xã hội Công giáo, bao gồm phẩm giá con người và công ích. Cuối cùng, một âm hưởng lạc quan đã chiếm ưu thế: bản văn cuối cùng của Hiến chế Gaudium et spes ca ngợi những tiến bộ trong khoa học, y học, giao thông và truyền thông như dấu hiệu phát triển của nhân loại. Nhưng trong khi ca ngợi “sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng” do “những tiến bộ kỹ thuật hiện đại” mang lại, Công đồng cũng cảnh báo rằng công nghệ không thể thay thế các kết nối mang tính nhân sinh “ở mức độ sâu sắc hơn của các mối tương quan liên vị”, vốn đòi hỏi “sự tôn trọng lẫn nhau đối với phẩm giá tinh thần trọn vẹn của con người”. Để bảo đảm xã hội công bằng trong tương lai, “văn hóa và đạo đức tôn giáo” phải “sánh bước với tri thức khoa học và công nghệ không ngừng tiến triển”.
Trong nhiều thập niên sau Công đồng, Vatican chậm bước trước cuộc cách mạng máy tính. Dẫu Đức Phaolô VI, Đức Gioan Phaolô II và Đức Benedict XVI nhiều lần cảnh báo về hiểm họa của chủ nghĩa kỹ trị, lặp lại mối quan ngại của Đức Piô XII về “tinh thần công nghệ”, các ngài chưa có suy tư mang tính hệ thống về kỷ nguyên kỹ thuật số do vi mạch, máy tính cá nhân và Internet mở ra. Thông điệp Caritas in veritate năm 2009 của Đức Benedict XVI là một khai triển sâu nhất. Với tư cách thần học gia tham dự Công đồng Vatican II, Joseph Ratzinger từng phê bình sự lạc quan công nghệ trong Hiến chế Gaudium et spes. Trên cương vị giáo hoàng, ngài ghi nhận tiến bộ công nghệ “hoa trái sáng tạo của con người được sử dụng như một công cụ cho tự do cá nhân”. Đồng thời, ngài cảnh báo về những hệ quả phi nhân tính tiềm ẩn của nó. “Ngay cả khi chúng ta làm việc thông qua vệ tinh hoặc tín hiệu điện tử từ xa, thì hành động của chúng ta vẫn luôn là hành vi nhân loại, biểu hiện cho tự do có trách nhiệm”. Cũng như Đức Piô XII, ngài khẳng định niềm say mê công nghệ không thể che khuất “các chiều kích phi vật chất và tinh thần của đời sống”.
Trong những năm trước Antiqua et nova, Đức Phanxicô thường xuyên đề cập đến những đột phá AI diễn ra trong suốt triều giáo hoàng của ngài. Chẳng hạn, năm 2020, ngài hoan nghênh Rome Call for AI Ethics do Học viện Giáo hoàng về Sự sống tổ chức. Ngài phát biểu tại hội nghị của Học viện rằng “Không đủ nếu chỉ tin vào cảm thức đạo đức của các nhà nghiên cứu và phát triển thuật toán. cần phải kiến tạo những cơ chế xã hội trung gian, có khả năng tích hợp và phản ánh cảm thức đạo đức của người dùng và nhà giáo dục”. Sau khi ChatGPT được công bố rộng rãi vào mùa thu năm 2022 và sự bùng nổ của các mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) sau đó, các can thiệp công khai của Đức Phanxicô ngày càng thường xuyên hơn. Ví dụ, trong sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình tháng 1/2024, ngài cảnh báo về những hệ lụy của AI đối với “sự phân biệt đối xử, can thiệp bầu cử, xã hội giám sát, loại trừ kỹ thuật số, và sự gia tăng của một chủ nghĩa cá nhân ngày càng tách rời khỏi xã hội”, cũng như những mối đe dọa đến hòa bình do các hệ thống vũ khí tự động gây ra. Lặp lại lời phê phán sâu rộng của ngài về “mô hình kỹ trị” trong thông điệp Laudato si’ (2015), Đức Phanxicô khẳng định rằng thước đo của AI phải là tác động của nó đối với phẩm giá con người và công ích, được hiểu là lợi ích của tất cả, nhất là những người ở bên lề xã hội.
Mệnh lệnh bảo vệ phẩm giá con người, nền tảng của học thuyết xã hội Công giáo, là cốt lõi của Antiqua et nova. Dù phần lớn bản văn đề cập đến các vấn đề chính sách—bao gồm những nguy cơ do thông tin sai lệch, dữ liệu thiên lệch và sự thiếu giám sát của con người đối với AI trong các lĩnh vực từ y tế, giáo dục đến kinh tế và an ninh—thì đóng góp trung tâm của văn kiện là sự phân biệt rõ ràng giữa trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người. Thông qua phân tích kỹ lưỡng về sự khác biệt giữa con người và máy móc, văn kiện nhằm xoa dịu cả niềm hy vọng lẫn nỗi sợ hãi về khả năng đạt tới trí tuệ nhân tạo tổng quát (AGI) ngang tầm con người trong tương lai có thể dự đoán. Văn kiện khẳng định rằng có một khoảng cách khổng lồ ngăn cách trí tuệ do Thiên Chúa ban cho con người, với tất cả sự phức tạp của nó, và ngay cả công nghệ AI tiên tiến nhất. Máy móc không bao giờ có thể trở thành những cộng sự thực sự, chứ đừng nói đến bạn đồng hành. Bất chấp mọi lời thổi phồng, chúng vẫn chỉ là công cụ của con người.
Lập luận trong Antiqua et nova về sự phân biệt mạnh mẽ giữa trí tuệ con người và máy móc có ba thành tố chính, mỗi thành tố đều có nền tảng triết học và thần học. Thành tố thứ nhất là một định nghĩa rộng về trí tuệ, vượt lên trên tính toán để bao gồm “ý chí, tình yêu, sự lựa chọn và khát vọng”, những năng lực mà máy móc vô hồn, không có tự nhận thức, không và sẽ không bao giờ có được. Thành tố thứ hai là tính hiện thân của trí tuệ con người. Con người vừa là tinh thần vừa là vật chất, không phải “hai bản tính kết hợp” mà là một sự hợp nhất “tạo thành một bản tính duy nhất”—một bản tính khác biệt về chất so với sự kết hợp giữa phần mềm và phần cứng, ngay cả trong những robot tiên tiến nhất. Thành tố thứ ba, liên quan, là tính tương quan của trí tuệ con người. Thành tố này “không phải là một khả năng biệt lập” mà là khả năng “được thực thi trong các mối tương quan, tìm thấy sự biểu đạt đầy đủ nhất trong đối thoại, cộng tác và tình liên đới”. Tính tương quan đó mở rộng đến sự chăm sóc toàn thể tạo thành và khát vọng nhận biết Thiên Chúa. Trí tuệ con người—có khả năng tự phản tỉnh, hiện thân và mang tính tương quan—sau cùng được định hướng về Chân lý. AI, chỉ là cái bóng mờ nhạt, chỉ đơn thuần là những phép toán logic trên dữ liệu.
Nhiều tài liệu tham khảo về triết học và thần học Công giáo trong Antiqua et nova rất phù hợp với đối tượng chính của bản ghi chú: những người “được giao phó truyền bá đức tin”. Nhưng chúng cũng có tác dụng như một đối trọng với thế giới quan duy vật, giản lược vốn thống trị phần lớn các suy đoán về cuộc truy tìm AGI. Quan niệm cho rằng trí tuệ con người chỉ đơn thuần xuất phát từ các hoạt động vật lý của não bộ là một dạng tín điều, một xác tín rằng kinh nghiệm con người, bao gồm cả những huyền nhiệm của ý chí tự do và ý thức, cuối cùng sẽ có thể được giải thích bằng các thuật ngữ vật chất. Niềm tin liên quan rằng máy tính có thể trở nên có ý thức—rằng số lượng, tốc độ và cấu hình vận hành của chúng có thể bằng cách nào đó tạo ra bước nhảy vọt về chất đến tự nhận thức—cũng là một tín điều mà không có bất kỳ nền tảng thực nghiệm vững chắc nào. Trong khi đó, như Antiqua et nova khẳng định, thật sai lầm khi gợi ý rằng máy móc vận hành tự do theo mô hình của con người. Tất cả những gì chúng làm là xử lý dữ liệu và tạo đầu ra. Chúng là công cụ, không phải là những tác nhân độc lập. Nếu một ngày nào đó trải nghiệm về ý thức và ý chí tự do được quy giản thành nguyên nhân vật chất và có thể tái tạo trong máy móc, khoảng cách giữa trí tuệ con người và máy móc có thể sẽ thu hẹp lại. Nhưng trong khi chờ đợi, khẳng định của Kitô giáo rằng chúng ta vừa là hữu thể tinh thần vừa là hữu thể vật chất, khác biệt với máy móc nhờ ý thức và ý chí tự do, vẫn hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ khoa học tốt nhất.
Trong khi Antiqua et nova thuyết phục trong việc gieo nghi ngờ về triển vọng AGI đạt mức độ thực sự ngang hàng con người, văn kiện chưa hoàn toàn giải quyết được khả năng ngày càng lớn của công nghệ trong việc mô phỏng trí tuệ con người trong toàn bộ sự phức tạp của nó. Từ khi bùng nổ, các mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) đã trở nên ngày càng giỏi trong việc tiệm cận giao tiếp của con người qua lựa chọn từ ngữ, nhịp điệu lời nói và giọng điệu cá nhân. Trong những năm tới, khi các tác nhân AI có quyền truy cập vào nhiều dữ liệu cá nhân hơn—từ tin nhắn và bài đăng trực tuyến đến lựa chọn của người tiêu dùng và lịch sử vị trí—và trở nên thành thạo hơn trong việc đọc và phản hồi cảm xúc của con người, chúng có khả năng mang dáng dấp của những nhân vị thông minh, biết quan tâm. Khi LLM tiên tiến được tích hợp vào robot được thiết kế mang hình dáng sinh vật, khuynh hướng nhân hóa cái phi nhân loại—điều đã được minh chứng rõ ràng trong trường hợp thú cưng—có thể khiến chúng thành những người bạn đồng hành, và trong một số trường hợp, những người bạn đáng tin cậy. Một thế giới mới thân mật giả tạo của AI có thể đang mở ra, với những hệ lụy xã hội sâu xa.
Antiqua et nova thừa nhận viễn cảnh này nhưng không tỏ ra lo sợ. Trong phần “AI và các mối tương quan của con người”, văn kiện khẳng định “AI có thể mô phỏng sự đồng cảm, nhưng không thể tái tạo bản chất cá vị và tương quan của sự đồng cảm đích thực”. Điều này đúng trong hiện tại; nhưng liệu nó có đúng trong tương lai hay không thì khó nói trước. Các tác giả đã đúng khi nhắc nhở chúng ta rằng “AI chỉ là sự phản chiếu nhạt nhòa của nhân loại—nó được chế tác bởi trí óc con người, được huấn luyện trên dữ liệu do con người tạo ra, vận hành nhờ tác động của con người, và tồn tại qua lao động con người”. Tuy nhiên, chính khả năng ngày càng phát triển của AI trong việc mô phỏng trí tuệ con người và xây dựng kết nối kiểu nhân loại lại là một bước ngoặt lịch sử. Từ Đức Piô XII, các vị giáo hoàng đã cảnh báo về khả năng công nghệ làm gián đoạn và làm biến dạng các mối tương quan liên vị—từ radio, truyền hình đến internet và mạng xã hội. Với những bước tiến nhanh chóng của AI, nguy cơ ấy tăng gấp bội.
Nhiệm vụ trước mắt sẽ vừa là duy trì sự toàn vẹn của các mối tương quan nhân sinh vừa là xây dựng các mối tương quan cộng tác giữa con người và AI vì công ích. Antiqua et nova nhắc nhở chúng ta rằng “thay vì rút lui vào những thế giới nhân tạo, chúng ta được mời gọi dấn than cách ý thức và tận tụy với thực tại, đặc biệt qua việc liên đới với người nghèo và người đau khổ, an ủi những ai sầu muộn, và kiến tạo mối dây hiệp thông với mọi người”. Một AI được giám sát đạo đức và quản lý đúng đắn có thể góp phần củng cố các nỗ lực bảo vệ phẩm giá con người và xây dựng những xã hội công bằng, bao dung hơn. Song song đó, những “thế giới nhân tạo” tất yếu nảy sinh từ tương tác người – máy cũng cần được kiểm soát, nhất là với tác động tâm lý và xã hội trên giới trẻ. Trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người chắc chắn sẽ vẫn khác biệt về chất. Trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người sẽ luôn khác biệt về bản chất. Nhưng chính sự giao thoa của chúng sẽ mở ra những thách đố hoàn toàn mới cho Giáo hội và thế giới.